Friday, May 12, 2017

Dâng Một Đóa Hồng Lên Hiền Mẫu, Nhân Ngày NHỚ ƠN MẸ - HỒ ĐINH

Trong dòng lịch sử Hồng Lạc, chúng ta có Mẹ Âu Cơ, quốc mẫu của dân tộc Việt và được nối tiếp bởi một trái tim từ mẫu thời cận sử: Thái Hậu Từ Dũ (Mẹ Vua Tự Đức nhà Nguyển), một trái tim nhân từ của các bà mẹ Việt Nam:

Gió Động Đình mẹ ru con ngủ
trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh
.. bống bồng bông, bống bồng bông
võng đào mẹ bế con rồng cháu tiên ..(ca dao)

          Riêng trong tín ngưỡng bình dân, ta có Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở miền Bắc và Mẫu Thiên Y A Na, dù phát nguồn từ Chiêm quốc nhưng từ thế kỷ XVI trở về sau, đã được người Việt phụng thờ , mà Hội Điện Hòn Chén hay lễ Viá Mẹ hằng năm vào rằm tháng bảy tại Thừa Thiên, là một minh chứng . Ngoài ra, còn có Đức Phật Bà Quan Thế Âm Bồ Tát của Phật Giáo và Đức Me Đồng Trinh Maria trong Ky Tô Giáo..
          Tại các nước Âu Mỹ, hằng năm đều cử hành long trọng ngày ‘ Nhớ Ơn Mẹ (The Mother’s Day)’ . Tại các nước Đông Nam Á theo Phật Giáo, vào ngày rằm tháng bảy âm lịch, đều cử hành long trọng Hội Vu Lan Bồn. Cả hai lễ hội trên, tuy hình thức có khác biệt nhưng vẫn chung nội dung với ý nghĩa ‘ VINH DANH CÔNG ƠN SINH THÀNH DƯỠNG DỤC CỦA TỪ MẪU ‘.Đây là một ngày lễ lớn và cũng là dịp để con cái tu nhơn tích đức, làm việc từ thiện trả ơn, báo hiếu cho cha mẹ mình, dù còn sống hay đã qua đời.
          Thật vậy, ngoại trừ đất đá và kẻ vô tri, còn vạn vật từ con người , muông thú cho tới cỏ cây, đều do MẸ cưu mang và sanh thành. Cho nên nơi tâm tư của tất cả mọi người, trong tiềm thức siêu thế, mơ hồ hay hiện thực , hình ảnh Mẹ luôn vẫn trang đài, diễm tuyệt, đáng để ta tôn thờ và trìu mến, dù rằng ‘ công cha như núi Thái Sơn ‘ còn mẹ hiền, chỉ như ‘ chuối ba hương, xôi nếp một và đường mía lau ‘.
          Nên người đời ai cũng cần có mẹ, dù là trẻ thơ hay người trưởng thành. Những đứa trẻ mồ côi, cho dù có được người thân còn lại nưng chiều, nuôi dưỡng tử tế cho mấy, lớn lên cũng cảm thấy tâm hồn mòn héo, khô cằn. Bởi vậy, người đời đã viết :’ mồ côi cha ăn cơm với cá, mồ côi me lót lá mà nằm ‘.Riêng người lớn tuổi, khi mất mẹ, cảm thấy chơi vơi như mất điểm tựa, nên cũng cô đơn lạc lõng như trẻ mồ côi.
          Tóm lại mẹ là nguồn gốc của mọi tình cảm yêu thương trên đời, cho ta biết thế nào là ngọt bùi ấm lạnh và nguồn thương yêu cao cả của kiếp nhân sinh. Tình mẹ bao la, đã biến nữ hầu tước De Sévigné, một phụ nữ tầm thường, trở thành một nhà văn nữ nổi tiếng của Pháp, cách đây 300 năm, qua những bức thư bất hủ viết cho mẹ. Tình mẫu tử bao la trùng hằng miên viễn, đã theo thời gian trở thành nguồn cảm hứng vô tận, như con thuyền bát nhã, đưa con người trần tục , đến gần các đấng từ mẫu, trong mọi tôn giáo lớn của hoàn cầu.
          Hằng năm cứ đến Tháng Năm, ở Hạ Uy Di,người Việt tị nạn CS cũng đều hưởng ứng Ngày Nhớ Ơn Mẹ do địa phương tổ chực rất long trọng và cảm động.. Trong không khí trang nghiêm của ngày lễ, gợi cho kẻ ly xứ nhớ biết bao cái quang cảnh chùa đình ở quê tôi Phan Thiết . Được theo mẹ lễ chùa trong dịp Tết Trung Nguyên, để nghe chiêng trống vang rền khắp chốn, chiêm ngưởng hình ảnh các vị Ni-Sư, áo mão rực rỡ, cầm gậy phép chạy đàn, xuống âm ty phá ngục để cứu chúng sinh đang trầm luân trong địa ngục khổ ải. Ôi đẹp biết bao là hình ảnh của mẹ tôi lúc đó, hình như người chẳng biết mệt mõi, khi cứ thắp hết bó nhang này tuần hương khác, trước các bàn thờ khắp chùa. Mẹ bảo, làm lễ như vậy, để cho vong hồn của ba con sớm được siêu thoát .
          Trong kho tàng văn chương của dân tộc Việt, ta thấy còn lưu lại rất nhiều bài hát ru, đọc lên thấy âm điệu rất là khoan thai, nhịp nhàng và nghệ thuật. Về nội dung, hầu hết các bài hát ru trên, được xem như là lời của Mẹ hiền đang vỗ về tâm hồn con thơ, nên rất gần gũi với mọi bà mẹ ở ngoài đời :

Gió mùa xuân, mẹ bâng khuâng hỏi
hoa trên đồi, hoa trên đồi
sớm tối còn hương
Có phải chàng Trương, gốc miền ma Xương..
xa vắng xóm làng vì đang ở chiến trường
hãy nín nín đi con, hãy ngủ ngủ cho ngoan.. ’ ’

          Nói chung lời mẹ ru con, được đánh giá như một thứ âm nhạc nghệ thuật khởi đầu và cuối cùng của đời người. Mẹ chính là người ca sĩ đầu tiên đối với con mình, bằng cả một tấm lòng, qua tiếng ru và nhịp võng, tạo ra cả nguồn hạnh phúc trời biển đối với tâm hồn trẻ thơ, với tình thương yêu dịu hiền, chứa đầy những khái niệm đạo đức nhân nghĩa, như môt khúc dạo đầu, đưa con thơ vào nẽo đời hạnh phúc.
          Nay lớn lên sống lang thang khắp mọi miền đất nước, tình cờ có những đêm khuya, đi qua những phố phường xa lạ, ngập đầy xe cộ và đèn trăng, bổng dưng thấy thèm nghe lại tiếng khóc của trẻ thơ và lời ru của mẹ.
          Ngày nay từ Âu sang Á và gần như ở đâu, cũng có những tượng đài , thơ văn, bài hát, tuồng kịch .. để ca tụng công đức biển trời của người mẹ, mênh mông tám hướng như biển Thái Bình. Bởi Mẹ là nguồn ngọn của mọi tình thương trên cõi đời này . Mẹ cũng là một hình ảnh tuyệt diệu , diễm hằng, muôn trùng ngời sáng, không bao giờ có thể thay thế được. Ôi sung sướng thay cho những ai còn Mẹ và cũng tủi xót cho những người mất mẹ nửa đời, mỗi khi tưởng nhớ, chỉ còn lặng lẽ ước ao ngóng về xóm nhỏ, nơi nhũng bờ bụi khóm tre, ngàn năm lau lách sạt xào. Con đã bước qua hết hai phần đời, để được thắm thía rằng , chỉ có một nguồn suối tình thương mang tên Mẹ, là vĩnh cửu không bao giờ khô chảy.
           Ôi cảm động biết bao, khi nhớ lại ‘Tôi đi học‘ của Thanh Tịnh ‘Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi, dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp..’  hay nổi nhớ mẹ của Lưu trọng Lư ‘Tôi nhớ me tôi thuở thiếu thời, lúc người còn sống tôi lên mười, mỗi lần nắng mới reo ngoài nội, Áo đỏ người đưa trước dậu phơi..’ hay giai thoại của Hồng Hà Nữ Sĩ Đoàn Thị Điểm, trước sự hỗn láo của tên sứ Tàu, đã lấy Me Việt Nam, làm đề tài, khi bà ứng khẩu một câu đối trả đũa giặc:
Nam canh nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh
(một tấc đất ở nước Nam, không biết bao nhiêu người cầy)
Bắc quốc đại trượng phu, giai do thử đồ xuất
(những người anh hùng bên Tàu, cũng từ chỗ đó mà ra)
        Câu đối vừa thanh lại vừa tục, hàm ý rằng dù là ai chăng nửa, thì cũng do Mẹ sinh thành, không có người, thì chẳng bao giờ có con. Chẵng vậy mà nhà văn Pháp Edmon de Amacid, đã viết trong ‘Tâm Hồn Cao Thượng’ Hà mai Anh dịch rằng:’Người Mẹ sẵn lòng, đem một năm hạnh phúc của mình, để đổi một giờ đau đớn cho con. Người Mẹ cũng sẵn sàng hy sinh cả tính mệnh , để cứu sống con mình. Con ơi, suốt đời con , sẽ có những ngày buồn rầu đau thương, và cũng là chuỗi ngày sầu thảm nhất: Đó là ngày con mất mẹ.
          Giờ mới hiểu tại sao, có những đứa con, do hoàn cảnh mà phải tha phương , biệt xứ, lưu lạc quê người, lại là những kẻ khao khát tình mẫu tử, nhung nhớ kỷ niệm, dù rằng đó chỉ là những hình ảnh đơn sơ mộc mạc nơi chốn quê nghèo:

           Chiều chiều ra đứng ngõ sau
          trông về quê mẹ, ruột đau chín chiều
          Mẹ ơi đừng đánh con đau
          Để con bắt ốc hái rau mẹ nhờ
          Ghe bầu trở lại về đông
          Con gái theo chồng, bỏ mẹ ai nuôi ?

          Đó là những câu ca dao hay nhất từ trước đến nay, đọc từ đầu đến cuối không tìm thấy một chữ nào thần bí hay cầu kỳ nhưng trong ý nghĩa và mùi vị, thì đượm thắm nồng nàn , khiến cho người ta phải đau khi nhớ và không cầm nổi nước mắt thương nhớ khi thực sự đối mặt với chiều buồn. Cũng cùng trong cái hình ảnh trên, người buồn hồn lại thêm buồn, khi nhà ai bên ngõ, bỗng dưng vô tình có tiếng gọi con, trong khi lưng trời, chiều tàn, đàn chim về tổ, ríu rít gọi nhau, làm cho nổi nhớ quay quắt không ngừng, khiến cho đứa con lạc bầy, bừng bừng nhớ mẹ, rưng rưng nhớ lúc nói láo tránh đòn, khi về nhà trễ vì ham chơi với bạn sau khi tan trường.
           Rồi thì lưu lạc mười phương, cơ hàn đói lạnh, gian truân tù ngục, hận hờn thương tủi, chỉ một mình con gánh chịu, chính là lúc nước mắt lưng tròng , bang quơ tưởng tiếc, cái thời ngồi chờ mẹ về, để có những món quà của buổi chợ quê, mà mẹ luôn dành sẵn:
           cơm người khổ lắm mẹ ơi
          không như cơm mẹ, chỉ ngồi xuống ăn.

          Mẹ là nguồn ngọn của mọi tình thương trên cõi đời, nên rất phù hợp với chân lý của mọi tín ngưỡng, đều lấy nhân hiếu làm căn bản xử thế và hành đạo. Bởi thế con người, trong lúc gặp hoạn nạn đau khổ, thì thường than thầm hay gào to :’ Mẹ ơi con khổ quá’ , đồng thời với lời cầu khẩn các đấng thần linh giúp đỡ. Do trên , từ trước tới nay, tự đông sang tay, đã có mẹ hiền thì cũng không thiếu gì những gương hiếu tử, đáng làm gương cho hậu thế soi chung muôn đời. Những câu chuyện kể sau dây, chỉ là những chiếc lá lẻ loi trong rừng thơ, nhạc, truyện, ký.. mà nhân thế kim cổ đã sáng tạo, để vinh danh những trang hiếu tử ngời sáng muôn đời .
          Trong kho tàng văn chương biÀnh dân của VN, cũng có nhiều thơ văn đề cao lòng hiếu thảo của con đối với mẹ như Pham Công-Cúc Hoa, Lục Văn Tiên, Thoại Khanh Châu Tuấn, Trần Minh khố chuối.. nhưng cảm động nhất là đời thực của Vua Tự Đức, đối với mẹ ruột của mình là Đức Từ Dũ, Hoàng Thái Hậu.
          Gần 40 năm về trước , nhà sinh vật học được giải Nobel năm 1973 là Konred Lorenz , chuyên nghiên cứu về sự tiến hóa của loài vật, đã cùng với nữ bác sĩ thú y là Marie Claun Bonsel, chuyên theo dõi đời sống của muôn thú. Qua nhiều năm thu nhặt, kết quả hai người đã tuyên bố :’ Dù con người có nghĩ thế nào chăng nửa, hoặc sự việc xảy ra do bản năng, thì chắc chắn muôn vật sẽ không còn tồn tại, nếu chúng không có tình mẫu tử .’ Do trên ta đã thấy, trong bất cứ loài thú nào, ở vào giai đoạn cực kỳ nguy hiểm , thì thú mẹ luôn lấy thân mình bảo vệ cho con cái, dù biết là mình sẽ chết. Tuy nhiên có sự khác biệt giữa con người và muông thú, đó là con vật mẹ sẽ không thấy có lỗi , khi bỏ rơi con cái hay giành lấy thức ăn để sinh tồn , mặc kệ con cái có bị chết đói cũng không màng tới. Cũng do đặc tính này mà các nhà nghiên cứu đã kết luận, thú vật chỉ có bản năng tình mẫu tử, chứ không hề có tình yêu tình mẫu tử như con người. Nhưng dù thế nào chăng nũa , ta cũng phải khâm phục chúng, trong khi đối xử với con cái , hết sức dịu dàng, trìu mến , giữa một thế giới vạn vật luôn thù nghịch, đầy hiểm họa, phải giết tróc lẫn nhau để sinh tồn.
          Đối với các loài thú hoang dã, khi thú con dứt sửa, thú con bị đuổi đi để tự sinh tồn. Đây cũng là tập quán, lẽ sinh tồn của rừng xanh. Với loài khỉ đột, khỉ cái do mỗi lần sinh đẻ chỉ độc nhất một con, cho nên chăm sóc con mình rất chu đáo, can thận. Riêng khỉ đực thì dửng dưng vô trách nhiệm, vì loài khỉ theo chế độ đa thê. Loài báo bờm khi sinh con, báo con không có lông và mở mắt được trong 15 ngày, nên báo mẹ phải chăm sóc và bảo vệ con nhỏ, đồng thời bỏ đàn tìm một nơi vắng vẻ đê nuôi con, vì báo cha sẽ ăn thịt báo con khi đói. Nhưng vĩ đại nhất vẫn là tình yêu con cái, nơi loài chim cánh cụt, chúa tể của miền băng tuyết Nam Cực, một địa danh lạnh nhất hoàn cầu. Để chim con ra đời và sinh tồn, chim cha và chim mẹ phải thay phiên đứng giữa băng giá lạnh lẽo, suốt thời gian bốn tháng rưởi, dùng bản thân mình để ấp trứng. Riêng loài Vượt Châu Á, một loài thú được con người ca tụng nhất, vì tình mẫu tử thiêng liêng bất diệt, yêu thương con cái hết mực, nên lúc nào cũng sẵn sàng lấy thân mình, để che chở con cái khi hiểm nguy. Cũng do tình mẫu tử thiêng liên, nên các ác thú như cọp, sư tử, rắn hổ mang mẹ, sẽ trở nên hung dữ dị thường, để bảo vệ con khi chúng sinh nở. Đặc biệt nhất nơi loài gấu, vì sợ gấu cha ăn thịt, nên gấu mẹ lúc bnào cũng cõng nhỏ trên lưng khi chúng mới ra đời. Do tình thiêng đó, nên tục ngữ mới có câu : ‘Hùm dữ còn không nở ăn thịt con‘.
          Tháng Năm tiết trời Hạ Uy Di như đã chuyển từ xuân sang hè, sắc nắng gió biển và những cơn mưa phùn bất chợt se mát, đã gợi nhớ những kỷ niệm quê hương của một thời xưa xa nồng thắm. Ở đây, mỗi lần nhớ mẹ, đứa con xa nhà lãng du khổ hận, chỉ còn ước ao lặng lẽ, khóc cưới mê tỉnh và bước vội lên con thuyền viễn xứ mộng mơ, để nhắm mắt mừng vui tủi tủi như thấy con đang quỳ bên gối mẹ năm nào.
 
Mẹ dỗ con, con ơi đừng khóc
mẹ ru con, con ơi ngủ đi
mẽ cõng con trên tấm lưng gầy
bươm bướm bay, bay vờn theo mãi
bươm bướm bay, bay vào giấc ngủ
đậu trên mũi, mùi chuối chín cây
con bươm bướm lại cất cánh bay
đậu trên mũi, mùi thơm mía ngọt.. ’
 
          Tháng Năm hằng năm là ngày giổ của mẹ nhưng hai chục năm qua, kể tứ ngày Mẹ qua đời tới nay, tôi chưa một lần về quê cũ để giổ mẹ, thậm chí ngày đưa tang cũng vắng mặt. Nhưng ở Phan Thiết,thì cứ đến ngy trên, cả gia đình xa gần đều tụ họp về căn nhà cũ, để cùng ôn lại quảng đời cơ cực của mẹ mà khóc. Riêng tôi, đời tên lính già biệt xứ, không nhà, mất nước, từ lâu chỉ còn biết rửa mặt bằng lệ mắt, để thay cho lòng hối hận của một đứa con, cứ coi như là bất hiếu vì suốt bao chục năm qua, đã vì đời mà bỏ mẹ ở chốn quê nghèo.
           Cha mất sớm trong cơn binh lửa từ năm 1955, mẹ ở vậy thủ tiết nuôi con khi tuổi vẫn còn xuân thắm. Bầy con mấy đứa, lớn lên trong cảnh đói nghèo lết lê khắp phố phường, cồn bãi của chốn biển bạc rừng tiền. Mẹ tự mình gồng gánh hết trách nhiệm một đời, thay chồng nuôi con,đưá nào cũng được ăn học tới chốn, qua đồi tay trìu mến đùm bọc của mẹ hiền.
         Trong tim, ai cũng có một dòng sông .. tiếng ca và lời nhạc của ai đó nghe thật thảm buồn, đã đưa tôi sống lại những ngày thơ ấu, cực khổ nhưng êm đềm với vô vàn kỷ niệm, theo con nước lớn ròng, giữa đôi bờ Mường Giang lao xao sóng vổ. Tôi được sinh và lớn lên ở bên bờ con sông quê hương đó, với tôi nó chẳng những là dòng sông tươi mát của tuổi thơ, mà còn là dòng sữa mẹ ngào ngọt nuôi con một đời:
 
“ Dòng sữa Mẹ cho con khôn lớn
có bao nhiêu Mẹ vẫn cứ thương
Giờ xa Mẹ ố Mẹ ơi có biết
Thu lại thu, thương nhớ quê hương ..”
( Thơ Thanh Trí Cao ).

            Giờ đây Mẹ đã ngủ yên trên quê hương yêu dấu, mặc cho dòng đời và dòng sông ròng lớn đổi thay. Nhưng với tôi con sông cũng như lòng mẹ, một đời đã hy sinh tần tảo vì con, làm sao quên được.
          Quê người, tháng Năm mùa hè và những trận mưa rào bất chợt, dù chỉ thoáng chốc rồi ngưng nhưng cũng đủ làm cho áo em ượt sũng.. Ven đường những cánh phượng vỹ đầu mùa với màu hoa rực rỡ., thỉnh thoảng theo gió rơi nhẹ trên đôi bờ vai khô héo của đời.
           Một đời từng lê gót khắp sông hồ, nếm đủ vị đời hờn hận, nay mới biết, thì ra trong kiếp nhân sinh, không có bài hát nào hay hơn bài hát của mẹ bên nôi con thơ, dù rằng chẳng mấy ai còn nhớ tiếng ru của mẹ. Lớn lên bỏ xứ mà đi và đi mãi, chỉ riêng mẹ ở lại với dòng sông con nước rồi ngả gục, mà con vẫn chua về.
 
Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng Năm Ngày Nhớ Ơn Mẹ.
HỒ ĐINH

Xuân Giữa Đời Thay Đổi - Cát Biển

Biển Thương Chánh Phan Thiết
  
Thế giới hiện tại sao đầy dẫy những đổi thay biến động. Từng phút từng giây. Bầu cử Tổng Thống, luật mới, chiến tranh Trung Đông, Châu Á, thuế khóa, là những đổi thay bên ngoài. Trong ta phải đối phó với một thân xác thêm nhiều bệnh lắm tật, và một tâm thần đang hứng chịu các sức ép của ngoại cảnh.
Ngày xưa thế giới của tôi là một thế giới không thay đổi, gần như bất động. Mọi người chấp nhận thế giới ấy và cố gắng an định trong bối cảnh xã hội ấy. Từ bé chúng tôi học lễ nghỉa "tiên học lễ, hậu học văn". Lúc mới học vỡ lòng gặp thầy đi ngoài đường là phải chạy đến cúi đầu chào thầy. Và thành phố Phan Thiết sao mà hiền hòa bình dị đến gần như dừng lại trơ gan cùng tuế nguyệt, chỉ chuyển động theo một chiều - chiều của thời gian.
Trong ký ức tuổi trẻ thơ ngây xa xưa mới tập tểnh đi học, tôi nhớ hình ảnh của các bạn trẻ con "bên phố" bùng binh của một quê hương thật an bình và hiền hòa Phan Thiết. Và một hàng chữ in nơi trang bìa tập viết mà tôi còn nhớ mãi bao nhiêu năm nay. Ðó là mấy chử "Ngày Nay Học Tập, Ngày Mai Giúp Ðời". Ngày nay tôi phục vụ cơ quan cấp bằng phát minh của Hoa Kỳ (US Patent and Trademark Office, USPTO). Công việc hằng ngày là phân tích và giám định chuẩn phê các sáng kiến từ các quốc gia nộp vào để cấp bằng phát minh. Công việc này là tích tụ 30 năm sau một hành trình từ một người tị nạn, qua 3 trường đại học, làm kỹ sư cho các hãng Exxon, McDDonnel Douglas, Boeing, và đến USPTO.
Ngày xưa mẩu người đại trượng phu phải đầy đủ nhân, lễ, nghỉa, trí, tín. Ngày nay một số các giá trị đó không còn quá cần thiết giữa một xã hội đa nguyên, hợp chủng.
Hôm nay, qua một bờ Thái Bình Dương bao la, qua bao nhiêu bến xe, cảng tàu đò, bao nhiên phi trường, qua bao nhiêu quốc gia, và cả một quãng đời đổi thay hụt hẫng...giữa các tia nắng Xuân vàng óng ả mới le lói giữa cơn giá tuyết mùa Đông, chợt nhớ về các hình ảnh ngày xưa là một điều đầy thú vị...
Quê hương ngày xưa
Vào những tháng ngày thơ ấu trong trí nhớ non kém mà tôi còn có thể hình dung được, cả phố Phan Thiết bình dị vừa chứng kiến nhiều dâu bể đổi thay trong nước. Vua Bảo Ðại xuống, Ngô Ðình Diệm lên thay, sau một cuộc bầu cử "trưng cầu dân ý". Tân Tổng Thống Ngô Ðình Diệm là người từng giử chức Tuần Vũ Bình Thuận lúc mới tròn 21 tuổi, một chức vụ tương tự như Tỉnh Trưởng sau này. (Sau cuộc đảo chánh năm 1963, giấy khai tử của ông có kê khai chức vụ của ông là "Tuần Vũ Bình Thuận" chứ không phải là "Tổng Thống VNCH"). Ðồng bạc mới VN thời đó đó có giá trị đáng kể. Chỉ cần hai cắc bạc chúng tôi có thể mua được cả một rổ ốc ruốc về để chị em chúng tôi "lể" ăn mệt nghỉ. Tôi nhớ lúc chánh phủ mới vừa cho lưu hành tiền mới, tôi cầm đồng bạc mới do má cho, đi mua món trái cây trị giá năm cắc. Bà bán hàng không thối lại năm cắc mà lại bà xé đôi đồng bạc giấy trả cho tôi một nữa vừa được xé ra! Trong hoang mang tôi về kể với các chị và ba má, thì mới hiểu lúc đó tân chính phủ vừa nhậm chức chưa có tiền cắc mới để cho lưu hành.
Cùng học chung trường thầy Giáo Nhiều, được gọi là thầy "Thẹo", là hầu hết lủ trẻ đường Lê Văn Duyệt dảy nhà tôi; và dảy đối diện phía bên kia của bùng binh, tức đường Nguyễn Văn Thành. Cùng học chung lớp nhi đồng thời ấy có các con của các bác nhà sách Vui Vui, bác Năm Phùng, tiệm vàng Thành Kim, tiệm vàng Mỹ Quang, tiệm may Mai Xuân Trượng v.v...bên kia đường là con của bác chủ tiệm xe đạp Tân Lập, Lê Chánh Ngử... có cả hai chị em Thanh và Bạch cháu cô Nam Phong tiệm vải nhà ở đường Ðinh Tiên Hoàng lối vào chợ, phía trong tiệm billiard chú "Buộc" nữa. Bên phố Gia Long các tiệm Vĩnh Hưng, Phước Hưng, kéo dài đến tiệm sách chú Bé Vĩnh Lợi cũng đều gửi con học chung trường này... Sau ngày anh cả tôi mất lúc vừa 2 tuổi, mẹ tôi sinh chị Anh rồi chị Nam. Lúc sanh được con trai, người mình có tục lệ hay cho đeo khoen ở tai để khỏi bị ông bà "bắt", bỏ qua không xem xét vì ngở là con gái. Tôi và Hiệp con bác Tân Lập đều rơi vào hoàn cảnh đó. Hiệp con bác Tân Lập vẫn thường được các bạn bè thân yêu gọi là Hiệp Lé, sau này được người chú tập đánh trống, trỡ thành 1 tay trống xuất sắc cho các ban nhạc. Hiệp khi đi học vỡ lòng vẫn còn mang khoen ở tai giống như tôi. Bây giờ mỗi khi sờ lên cuối vành tai trái tôi vẫn còn dấu lổ tai đeo khoen ngày xưa, mặc dầu lổ ấy đã được lấp kín từ lâu. Và như vậy mốt đeo khoen của các con trai ngày nay tôi cũng đã có từng nếm qua từ bé... Vì cha tôi hay thách thức tôi từ nhỏ với các bài toán nhân toán chia rất dài rất khó, nhưng nếu làm đúng sẽ được thưởng 1 đồng, thậm chí có khi ba đồng đủ ăn một tô hủ tíu mỳ tuyệt vời, nên tôi rất yêu thích Toán. Và cũng là dễ hiểu khi sau này tôi xem Albert Einstein như một thần tượng, với nhiều khao khát được đi học để mỡ mang kiến thức. Albert Einstein, nhân tài lỗi lạc nhất thế kỹ 20 của loài người tuy chỉ hiện diện trên quả đất vỏn vẹn có 76 năm ngắn ngủi nhưng những đóng góp vô song của ông vào kho tàng kiến thức của nhân loại đã đẩy loài người vào những cao độ mới, những quỹ đạo mới của các đẵng cấp tinh khôn.
Vào những năm trước 1960 khi đất nước đã hồi phục được phần nào giữa những biến động triền miên, gia đình tôi đã tạo được cơ sỡ làm ăn vững vàng với tiệm may Phan Sinh kế bên nhà hàng Nam Thạnh Lầu. Trong nhà đông người nhộn nhịp những năm ấy với hơn mười thợ may nam nữ, chiều nào nhà cũng tràn ngập hạnh phúc với tiếng đố vui, tiếng vui cười đùa cợt của những anh chị thợ may thi đua nhau xem ai may cắt nhanh và đẹp nhất. Thậm chí có khi các anh chị thợ may còn ngũ lại trong nhà qua đêm. Dạo ấy có chú Phán là 1 thanh niên trẻ tuổi, người vui tính hay đờn ca xướng hát và cười giỡn nhiều nhất. Có đêm tôi và Ba đi xem xi nê về thấy các cô cậu còn giỡ bàn xoay Cơ giữa đêm khuya, với nét mặt vừa tò mò vừa nhút nhát của các chị thiếu nữ bên ánh nến lung linh, và miếng Cơ - làm bằng gổ từ hòm người chết - chạy rèn rẹt trên bản đồ giấy. Sau này 15 năm sau chú Phán có ghé về thăm nhà tôi, chàng thanh niên vui tính hay cười đùa dàn hát dạo đó đã thành một tu sỉ, nghiêm chỉnh trong bộ nâu sòng. Những êm ấm ấy, dầu xen lẫn với bao thiếu thốn vật chất, đều đã tan biến vào những năm khi Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam ra đời với khủng bố của chiến tranh, như cơn gió đen tàn bạo thổi vào thành phố.
Từ vùng biển mặn đến Sài Gòn mỹ lệ
Quê tôi chỉ cách Sài Gòn 200 cây số. Nếu tuổi ấu thơ của tôi có thể ví như mực nước sông Mường Giang bình dị của Phan thành, thì tuổi lớn lên của tôi phải ví như những đợt sóng Thái Bình Dương ồ ạt. Tôi được gửi vào Sài Gòn học theo chân người chị kế vào Sài Gòn học - chị Minh, mà sau này mấy ông thư ký trong xóm kém chử nghỉa làm giấy tờ viết lộn tên của chị, kêu theo thứ thành tên "Năm", để rồi sau này được đổi lại thành Nam  cho dể nghe. Năm thi trung học, chị Nam đậu hạng Bình, được nhận vào trường nữ Gia Long ỡ Sài Gòn. Chị có khiếu học sinh ngử, có nét xinh đẹp và bản chất thông minh nên thường có nhiều thanh niên theo đuổi. Gia đình muốn tôi cùng vô Sài Gòn học với chị để có chị có em cho vui. Người Pháp có nói "Ði là chết trong lòng một ít". Làm sao tôi quên được những đêm ngồi khóc thấm thía bên một góc tối sân thượng nhà Dì Hai chỉ vì một anh nghệ sỉ lãng mạng nào đó ỡ cuối hẻm Lê Văn Duyệt Sài Gòn, góc Phan Đình Phùng, đã thổi những tiếng sáo trầm uẩn não nề như cắt xé lòng kẽ xa nhà ra từng mãnh vụn. Và nhất là những ngày chuẩn bị về quê, từ rựng sáng chị em tôi thức dậy thật sớm để đón xe xích lô máy nổ bình bịch, náo nức ra bến xe đò để về Phan Thiết nghĩ Tết. Tuy nhớ nhà thương quê nhưng cái quyến rũ, cái náo nhiệt của Sài Gòn cũng khó mà cưỡng lại. Nếp sống nhộn nhịp, phồn hoa và táo bạo ấy tấn công tâm hồn trai trẽ vụng dại trong tôi như một cơn bão lốc. Hằng ngày học cùng lớp với những tên bạn lúc nào cũng nhai chewing gum, mặc quần jeans, đi Vespa, sáng sáng vô lớp chỉ kể chuyện đi "boum" (tức đi party) thật là khác xa với những người bạn cần mẫn chất phát quê nhà hằng ngày gắng đạp ngược gió những chiếc xe đạp củ kỹ từ Phú Long qua sỡ muối lên Phan Thiết học, hoặc có kẽ đi miệt mài hằng mấy cây số mới đến trường - và thông thường hay bỏ học vào những năm Ðệ Tứ, Ðệ Tam để đi lấy vợ hoặc đi cảnh sát. Rời xa những người bạn thân thương nối khố với những nụ cười dể dải hồn nhiên, vào Sài Gòn ngồi chung lớp với các cậu thanh niên chuyên ăn chơi thưỡng ngoạn nhạc ngoại quốc thường hay tán gẩu về Sylvie Vartan, Cliff Richard, Elvis Presley và ban The Beatles quả là một sự thay đổi đầy trái ngược. Những tháng đầu tiên vào trọ học Sài Gòn hồn tôi đầy những trống vắng hoang vu làm sao vì nhớ nhà nhớ bạn giữa một thế giới náo nhiệt chung quanh.
Mỗi chuyến về thăm quê Phan Thiết như vậy là để tìm về với những ấm cúng thân yêu của gia đình với gỏi cá mai, cơm gà, mì quảng với những câu chuyện vui và hấp dẫn do cha tôi kể mà mọi người chúng tôi náo nức muốn nghe. Bao năm trường lớn lên, ngoài tính chất nghệ sĩ được hấp thụ từ cha, chúng tôi được Ba kể cho nghe không biết là bao nhiêu chuyện hay. Từ những chuyện đường rừng lạ lùng kỳ hoặc, chuyện ma Bình Thuận kinh dị, những mẩu chuyện Ngàn Lẻ Một Ðêm kỳ thú của vương quốc Ba Tư, những chuyện tếu và ý nhị như loạt chuyện Thi Nói Láo đăng trên báo thời bấy giờ, những mẫu chuyện sâu sắc từ quyển "Ðể Trỡ Thành Một Vĩ Nhân", đến những chuyện Tam Quốc Chí nêu cao cái hay đẹp trong thuật xử thế của người xưa, chúng tôi đã học hỏi không biết bao nhiêu điều qua những mẩu chuyện hấp dẫn từ cha tôi. Chị Nam (tức Hoàng Minh) là một người giỏi về văn thơ, lúc nào cũng yêu đời, hay kể các chuyện vui Sài Gòn, nhất là chuyện các cô nữ sinh Gia Long tinh nghịch, với lối pha trò và điệu bộ rất dí dõm. Các em Yến và Hà luôn lăng xăng quấn quít bên các anh chị từ xa về để góp tiếng cươì chung. Mỗi dịp các con về, mẹ tôi không bao giờ quên nấu những nồi canh chua thật ngon với đủ thứ cá tươi, giá, rau thơm, ngò, me, bạc hà, và nước cà chua vàng óng ánh đặc sản của Phan Thiết mà chúng tôi không còn được thưỡng thức khi vào Sài Gòn. Hình ảnh nồi canh chua vì vậy in khắc trong trí tôi trỡ thành biểu tượng cho sự hi sinh của người mẹ nói chung và người mẹ Phan Thiết thân yêu của chúng tôi nói riêng. Lúc hai chị em tôi trọ học ỡ Sài Gòn, mỗi lần có người vào Sài Gòn mẹ tôi thường hay gửi 1 nồi cá nục kho tặng Dì Hai, kèm cả một bầu trời thương yêu trong lá thư của mẹ. Thư của mẹ gửi chúng tôi có nét chử nghuệch ngoạc của bậc tiểu học nhưng đầy ý nghỉa của một người hiểu đời. Bà mẹ ấy không bao giờ quên quá khứ khổ nhọc và đã cố gắng dành hết những hạnh phúc cho các đứa con. Người mẹ ấy trước kia là một thiếu nử xinh xắn tại Phú Long, chị cả của một đàn em đông, chỉ được học xong lớp Ba. Vì thuỡ mới lớn nghèo khổ, mẹ phải phụ gia đình làm bánh bông lan bán nuôi đám em nhỏ dại. Bà gặp Ba tôi cũng là người anh cả trong một gia đình đông con tại Phan Rí, cũng không kém phần khổ cực. Ngày ba má tôi lấy nhau, cả hai gia đình đều khóc vì mất đi người phụ lo cho hai bầy em hai bên. Vì không một mảy may vốn liếng gì để làm ăn, ba tôi phải trôi dạt sang tận bên Miên (Cam Bốt) theo theo bác Tư Sào ba anh Nguyễn Văn Cao để học nghề may. Sau này bác Tư Sào về lại Phan Thiết mỡ tiệm cầm đồ Phước Lợi. Trong cảnh bần cùng khó nhọc đó, ba tôi cuối cùng dành dụm được một ít tiền về lại Phan Thiết để bắt đầu một cuộc đời mới. Mẹ tôi rất khéo về buôn bán với lối giao tình thân mật với các khách hàng của bà. Chỉ một vài năm bán hàng trong chợ, bà đã mỡ rộng các gian hàng theo số thương vụ gia tăng. Chiều chiều mẹ tôi mua chè đậu xanh cho chúng tôi ăn, đến mùa mãng cầu, xoài, hay măng cụt mẹ tận tụy đem về cùng ăn với đám con. Có lẻ không gì đáng nhớ cho bằng một điều đặc biệt là mỗi khi đi đâu về nhà mẹ tôi đều mang về một chút quà cho con, dầu chỉ là 1 trái ổi, trái quít hay chỉ là một củ khoai. Tôi thích Sài Gòn với nhịp đập của cuộc sống mãnh liệt, mỹ lệ với các thời trang hấp dẫn, và vui tươi với nhiều mục giải trí. Nhưng tôi thương yêu thành phố Phan Thiết bình dị hiền hoà quê tôi bỡi đó là đất của những kỹ niệm thân thương, của những rung động và nhận thức đầu đời.
Thế hệ của Cha
Những năm đó sự tàn phá của chiến tranh càng lúc càng dử dội. Một buổi chiều mùa hè khi được tin từ Sài Gòn nhắn về Phan Thiết cho biết tôi thi đậu Tú Tài 1, ba tôi sung sướng khoác vai tôi, hai cha con cùng đi bộ một quãng đường dài khá xa; từ nhà ngang qua trường tiểu học Ðức Nghiả, vòng qua ty Cảnh Sát, rồi mới trỡ về lại nhà. Trên đường đi, ông rưng rưng siết vai tôi kể lại đời ông và chuổi ngày ông đi học trong những điều kiện cực kỳ khó khăn, khiến mắt tôi ướt đẫm lúc nào. Ông ra đời năm 1918 vào một buổi chiều cuối năm âm lịch khi chợ Tết sắp tàn. Ông nội tôi chết sớm, bà nội tôi phải chật vật nuôi đàn con thơ. Ba tôi thân phận mồ côi cha, phải kiên trì chịu đựng lắm mới được đi học sau những giờ làm lụng vất vã. Ngày đổ bằng Sơ Học, ông được đưa về làng như cảnh tượng vinh quy bái tổ. Cho đến ngày nay, tôi vẫn không bao giờ quên được kỹ niệm buổi chiều hai cha con đi bộ ngày hôm đó. Ba tôi có chử viết rất đẹp dầu cả quãng đời niên thiếu của ông đầy giẩy những cơ cực. Ðiều mà tôi nhớ mãi ỡ cha là chiều chiều ông hay ra các bài toán nhân hoặc chia thật khó cho tôi làm để khích lệ tính hiếu học trong tôi. Chính những kỹ niệm đặc thù đó đã thúc đẩy kích thích tôi yêu thích mê say môn toán như những nhà vỏ sĩ sẳn sàng lăn xả vào đấu trường. Sau này khi sang Mỹ, và suốt cả cuộc đời mài đủng quần tại các trường học, môn Toán đối với tôi vẫn là một thú tiêu khiển thích thú đầy thi vị hơn là một môn học khó nuốt. Nhờ công việc dạy kèm Toán tại các trường đại học Hoa Kỳ tôi đã có thêm ít tiền còm để chi dụng những tháng ngày theo đuổi việc học.
Dạo đó Ba tôi không còn đi lưu diển với đoàn hát cải lương thành phố nữa, về lại Phan Thiết lập nghiệp với tiệm may Phan Sinh. Tuy nhiên các diễn viên củ trong đoàn hát như cô Út, chú Tao Ngộ, chú Võ, v.v... vẫn ghé thăm nhà tôi để cùng đờn ca xướng hát các bài bản ưng ý cuả thời đi lưu diễn. Thỉnh thoảng ba tôi vẫn ngân nga những bài ca xưa, cả những khi ông đang cắt vải thoăn thoát theo đường phấn kẻ màu xanh với chiếc kéo cắt thật bén và lớn, hoặc lúc chân đang dạp đều nhịp chiếc máy may với đôi tay ông lèo lái các đường vải. Các máy may khác trong nhà chạy đều theo nhịp đạp của các thợ chính, thợ phụ, hoặc các anh còn đang tập sự. Các anh thợ thanh niên thì dạn dĩ hay ca góp vui nối tiếp theo ba tôi, hoặc có người ra câu đố, hoặc kể chuyện vui. Các người giúp việc đôi khi cũng trở thành đề tài cho các thanh niên giởn phá. Các chị thợ thường chỉ phụ đơm khuy và kết nút, tham gia cuộc vui một cách kín đáo hơn bằng các tiếng cười dòn. Chị Sáu thường bị các anh thợ chiếu cố trêu ghẹo suốt ngày vì chị có nét xinh ở tuổi dậy thì. Sau giờ làm việc, các anh chị vẫn còn tiếp tục lân la kể chuyện vui hoặc đờn ca trong phòng khách lầu dưới. Mé sau căn nhà, trên lầu hai có một bức tường bằng gạch, được xây hơi kiểu cọ, chừa khuyết một vòng tròn khá lớn như vầng trăng khiến cho người trong nhà có thể nhìn được ra sân thượng ở mé sau. Chị cả cuả chúng tôi, chị Hoàng Anh, thường leo ngồi vào vòng trăng đó, thả chân đong đưa vừa ca các bài như "Ánh trăng trắng ngà, có cây đa to..." Dạo ấy chị Anh đã là 1 thiếu nữ cao và thon gầy trong chiếc áo dài trắng. Trong khi chị Hoàng Minh (tức chị Nam) vẫn còn học trường Nữ bậc tiểu học, chị Anh đã vào học trường Phan Bội Châu, được ba má tôi mua cho một chiếc xe đạp mà lúc nào chị cũng giử bóng loáng. Lúc sau, theo phong trào Velo Solex, chị cũng có 1 chiếc Velo thay cho xe đạp. Chị theo sát ba tôi từ những dịp đi lưu diễn hay cả những lúc ba đi đá banh bên Sân Vận Ðộng. Các cầu thủ đá banh mặc quần shọt, áo may ô và mang giầy đinh. Có lần trên sân banh, khi chị Anh đang giử áo quần của ba tôi vừa thay ra, một thanh niên đến nói với chị là "Ba của cô kêu tôi đến nhờ cô đưa quần áo cho ổng thay"... Chị Anh bèn đưa hết quần áo, có cả bóp và tiền bạc. Ðến khi ba tôi đá banh xong, trỡ lại lấy quần áo đi thay, mới biết chị Anh đã bị kẽ lạ gạt lấy hết quần áo giấy tờ. Em Hoàng Yến kế tôi hảy còn bé chưa đi học, và em Thanh Hà chỉ mới chập chững biết đi. Trong các bài ca mà tôi nghe ba tôi ca, có một bài với lời thật ngộ nghỉnh khiến tôi theo hỏi và được ba cho biết là do bác Trúc Viên Trương Gia Kỳ Sanh sáng tác, thời bác còn làm bầu gánh hát - thời thật xa xưa trước khi bác trở thành Dân Biểu Bình Thuận. Bài hát này các chị em chúng tôi sau này đều thuộc lòng (và trở thành bài ca chung trong những dịp vui mỗi khi gia đình hội ngộ):
Mau vô trỏng, cúi đầu thưa với ổng
Rằng tôi đợi ngoài cổng
Rồi trở ra mau nói, để cho tôi thăm hỏi
Kẻo chờ lâu cẳng mõi
Ông quan ấy thân với tôi lắm đấy
Tôi với ổng họ Trình
Trình ấy làm Quan
Còn Trình này thì bán quán giữa rừng "hoang"
Quán với Quan cũng gần
Quan với Quán một vần...
 
Những lúc cả nhà theo tiếng đờn cuả cha tôi quây quần ca hát, mẹ tôi thỉnh thoảng cũng ca góp một bài với lời lẻ thật xa xưa "Dạ dạ dập đầu ... Thưa chuyện với chị dâu ..." Có một bài ca rất dài mà lủ chúng tôi rất thích nghe giọng của Ba ca với những hơi ngân, những nhịp ngắt với tiếng song lang gỏ nhịp tài tình truyền cảm điệu Xàng Xê, hoặc khúc lái ngân nga lên xuống giọng thật đặc biệt, khiến cho người nghe cãm thấy như có một làn mây ấm cúng nào đó đang vây quyện khắp không gian: 
Hậu đô Bắc Hà,
Vào triều Lê Cảnh Hưng năm thứ 46,
Hân hạnh được cung nghinh Ðức Bình Bắc Tướng Quân Nguyễn Huệ
Thống lảnh đại đội binh hùng
Hát khúc khải hoàn vào cổ lủy Thăng Long
Sau khi bình giặc đã thành công
Nhưng vì thấy Lê Trịnh tranh hùng muôn dân đồ thán
Cho nên Nguyễn Tướng Quân phải diệt Trịnh phù Lê
Tảo trừ bọn Trịnh tư quyền là Trịnh Tứ Phương
Hạ thành sơn nam...
Sau những quãng đời khó khăn vật vã truân chuyên với cuộc sống từ những ngày Tây về ruồng bố bắt dân, rồi chuyến lưu lạc sang tận Cam Bốt học may, cha mẹ chúng tôi vừa mới bắt đầu gầy dựng được một cửa tiệm may để sinh nhai với những điều tạm gọi là yên ổn của mái ấm gia đình, tuy đơn sơ nhưng tràn đầy hạnh phúc. Bỗng nhiên một hôm cần tiền, người chủ căn phố nhà chúng tôi đang ở trỡ về lại Phan Thiết và quyết định bán căn nhà thật gấp, chứ không cho gia đình tôi thuê nữa, mặc dầu thời hạn thuê mướn vẫn còn và công việc làm ăn của ba tôi đang đà phạt đạt. Vì giá bán căn phố quá cao cha mẹ tôi không đủ tiền để chồng mua căn phố ấy, gia đình chúng tôi đành phải quyết định dọn đi.
Thời mới lớn
Ðậu xong Tú Tài 1 tôi trỡ về trường Phan Bội Châu tại Phan Thiết học lớp Ðệ Nhất, hồn tôi đầy những thương tích rã rời không kém gì thể xác phí phạm với men rượu và khói thuốc thâu đêm bên cạnh lũ bạn thân. Ðấy là những năm tôi uống những lon bia đầu đời, yêu thích nhạc Trịnh Công Sơn như các người trẻ khác. Chúng tôi bắt đầu hướng về các ý niệm và nhận thức của tuổi thành niên: quân dịch, đại học, du học, tình yêu, cuộc đời và thân phận. Cả tên bạn thân Nguyễn Xuân Hùng và tôi đều thích bản nhạc "Tình Khúc Thứ Nhất", thơ của Nguyễn Ðình Toàn do Vũ Thành An phổ nhạc. Chúng tôi say mê các truyện "Bếp Lửa" của Thanh Tâm Tuyền và truyện dài "Ung Thư" của ông trên tuyển tập Văn. Rồi đến các bài thơ học trò của Nguyên Sa mà điển hình là bài Áo Lụa Hà Ðông. Dạo đó có bản dịch của nguyên tác La Porte Etroite (Khung Cửa Hẹp) của André Gide, Bùi Giáng dịch, mà chúng tôi rất thích, với hai câu thơ trích từ bài thơ Khúc Ly Ðình của Cao Thị Vạn Giả khi người yêu sắp đi du học phương xa:
Tiễn chân anh tận phi trường
Lỗi đi lỗi ỡ mười phương lỗi về 
Mù sương phi cảng nảo nề 
Thôi anh ỡ lại buồn về em mang
Tiễn anh một chén rượu tàn 
Một bàn tay nắm một hàng lệ mau...
Bạn bè chúng tôi bắt đầu biết suy tư, rất vui, nhưng lủ chúng tôi đã qua khỏi tuổi hồn nhiên mất rồi và trỡ thành đối tượng quân dịch để đáp ứng nhu cầu chiến sự ngày một gia tăng. Những người bạn suýt soát cùng lứa như Bá Long, Nam Bò, Dũng Lọ và nhiều bạn bè khác đều tuần tự phải nhập ngủ. Sử đi SQ Thủ Ðức. Nam Bò đi Thuỷ Quân Lục Chiến, chết tại vùng 4. Dũng Lọ em anh Nguyễn Kim Hùng đi SQ Thiết Giáp, bị mất tích. Cùng ỡ lại Phan Thiết có Diệu Lý, Cu Tân, Hùng, Quang và tôi. Sau Tết Mậu Thân chiến cuộc càng tàn khốc. Nguyễn Xuân Hùng, Nguyễn Trung Quang và tôi vào Sài Gòn học đại học. Quang được học bổng đi du học nhưng vào học Quốc Gia Hành Chánh vì tuy cùng đi chơi như lủ chúng tôi, hắn đậu Tú Tài 2 hạng Bình. Các bạn ỡ Sài Gòn như Trần Văn Toàn và Nguyễn Thành Vân được gia đình gửi đi du học tự túc sang Ðức, và sau này đều lấy vợ Ðức. Hùng và tôi cùng học Luật và kinh tế tại Ðại Học Vạn Hạnh. Một hôm sau khi nhậu say đã đời, Hùng và tôi cùng quyết định tình nguyện đi Hải Quân.
Tuy chuyến về quê nào đối với tôi cũng là những chuyến thân thương như về miền đất hứa, cũng có những chuyến về kém vui tươi vì những mất mát. Sau khi tốt nghiệp Khóa 20 trường SQHQ Nha Trang, tôi phục vụ tại Vũng Tàu, được đi xuất ngoại du tập (lúc mang Trung Úy) và phục vụ trên các chiến hạm HQ-800, HQ-802. Một trong những lần về thăm Phan Thiết buồn bả nhất là khi được tin em Yến chết. Tàu HQ-800 tôi vừa đi công tác quần đảo Trường Sa về đến bờ thì được một người quen cho biết em gái tôi bị chết đuối tại biển Thương Chánh. Tôi xin phép hạm trưỡng về Phan Thiết gấp. Buổi chiều từ mộ em Yến ỡ bia đài về, tôi chưa bao giờ thấy căn nhà mình trống trải lạ lùng đên thế. Như một chiếc răng lược đã gảy, sự vắng mặt của em thật là hiển nhiên. Mỗi khi tôi bước lên lầu, đi lên nhà trước hoặc ra sau nhà, đâu đâu cũng thấy hình bóng em ẩn hiện. Trước đó, chị Nam thấy điềm báo mộng chẳng lành về em Yến, chị đã về Phan Thiết trước tôi và làm mấy câu thơ viết trên một tấm trướng lớn lúc đưa tiển theo quan tài của em Yến:
Em chết vội không thời giờ trang điểm 
Giùm cho em nhan sắc nhuốm xanh sao
Hai mươi tuổi thú vui đời chưa hưỡng 
Em nỡ lòng về tiên cảnh đành sao
 
           Như ai khư lại đống tro tàn dĩ vãng, buổi chiều xanh hôm ấy bên mộ em, quá khứ như một dòng sông trôi về mênh mang trong tôi. Tôi có cãm tưỡng trong lòng mình cây cối mọc hoang vu. Nước mắt tôi chảy tự nhiên, từ một con tim rủ rượi.
Đoạn đường cuối của Cha
Vào tháng 4 năm 2002, Tôi từ Nam Cali và chị Hoàng Nam từ Minesota cùng hẹn nhau qua Philadelphia thăm Ba. Trí nhớ của Ba như đã cạn hẳn. Người cha yêu dấu với ngón đàn du dương, làn hơi truyền cảm và giọng kể chuyện đầy mê hoặc, người đã mang hình ảnh Tết thiêng liêng về bên bàn thờ tổ tiên mỗi mùa Xuân cho gia đình chúng tôi giờ chỉ còn là một thân xác gầy gò, tóc bạc sương, ngồi xe lăn với cặp mắt nhìn trống rỗng thờ thẩn xa xôi vào hư vô. Ba chỉ cười nhìn các con, nhưng nét tinh anh sắc bén của tầm mắt không còn nữa. Ba như ngọn đèn leo lét trước gió. Một năm sau đó Ba vĩnh biệt cuộc đời. Ba mất đi để lại nhiều kỷ niệm về một thời rất đẹp với quê hương khi gia đình còn có những buổi ăn tràn đầy tình thương yêu lúc các con của Mẹ còn quây quần đông đủ bên quầy canh chua cá nục kho tuyệt vời và thèm khát lắng nghe những chuyện kể đầy thích thú mê hoặc của Ba.
Nhắc đến mẹ, tôi nhớ nhất là những lúc mẹ đi buôn bán chiều về nhà. Mẹ luôn kêu tôi cho trái ổi, trái quýt, trái cam. Khi thì được trái xoài, măng cụt. Tiếng yêu thương của mẹ tôi là như thế. Không phải bằng lời nói "yêu thương" mà là cái nhìn âu yếm trìu mến, cái vuốt đầu khi mẹ sung sướng. Vậy mà khi sang Mỹ rồi, ai cũng lo phấn đấu với cuộc sống mới. Chợt nhớ lại những lúc tôi cằn nhằn mẹ vì mẹ đổ thuốc tẩy vào máy giặt quá nhiều làm rách hư hết mấy bộ quần áo hiếm hoi, hoặc khi mẹ rang popcorn trong microwave lâu quá làm cháy khét cả nhà. Mẹ tôi đành lặng im không đáp. Trời ơi, thấy mình sao kém cỏi nhỏ mọn quá quá. Sao mình không biết lựa lời để mẹ khỏi đau lòng. Bây giờ cha mẹ đã khuất núi rồi, làm sao mình sánh với những tình thương và hạnh phúc cha mẹ đã từng ban cho trong quãng đời khốn khổ kia.
Đất Mỹ những ngày đầu
Năm 1975 thành phố Wilkes-Barre PA tăng thêm một dân số, mà phải nói là một "khách trọ" thì mới đúng. Đó là hình ảnh của một thanh niên tị nạn trẻ với nhân dáng gầy gầy, mái tóc phủ tai, với đôi mắt đăm chiêu, một nụ cười khô khan không trọn vẹn, và một tâm sự ngổn ngang những nỗi niềm, bước những bước chân xa lạ bỡ ngỡ trên con phố Main Street của thành phố Wilkes-Barre, PA với tâm trạng buồn bã. Tuy nhiên, miền đất mới này như trải rộng một lời mời gọi rất chân thành và khoan dung. Nó thúc giục tâm hồn thanh niên tị nạn trẻ trong tôi một nghị lực phấn đấu để vươn lên mà tôi không tài nào cưỡng lại được. Tôi cố gìn giữ đóm ánh sáng của một ngọn nến bập bùng, dầu đôi khi có bị nghiêng ngả tròng trành trước những gió mưa giông bão của cuộc đời. Tôi nhớ lời của vị thầy dạy học tôi thời niên thiếu, người đã mang tôi ra khỏi bóng tối của khờ dại và bước vào vùng ánh sáng của lý tưởng với lời khuyên còn vang vọng từ thuở bình minh của tâm hồn "Các con hãy sống chân thành, sống đầy nghị lực, hãy đi tìm ý nghĩa của cuộc đời... và rồi hạnh phúc sẽ đến với con, với một niềm mãn nguyện.."
Người lữ hành đó đang mò mẫm đi tìm một điểm đến, một nụ cười, hay phải chăng là một mùa Xuân...Đầu niên học kế, do lời khuyên của một người bạn, tôi tập trung mọi can đảm đến gặp vị Dean of Admission của trường Đại Học Wilkes để xin nhập học. Vị Giám Học (Dean) này mới ngoài 40 tuổi, rất cởi mở và tận tâm khi gặp tôi. Tôi rất ngại ngùng, nhưng nhờ vào sự tin tưởng ấy của ông mà sau khi tính hết tất cả các khoản học bổng ông có thể xin được cho tôi, cuối cùng ông cho biết khoản học phí rất cao của tôi có cơ hội sẽ được thanh thỏa đầy đủ! Ba tuần sau, tôi sung sướng và cảm động biết bao khi nhận được 1 lá thư có in dấu hiệu trường Wilkes lịch sự ngoài phong bì chuyển đến phố Allentown nơi tôi đang làm thợ dệt cực nhọc ca khuya (graveyard shift).  Lá thư gọn ghẽ và lịch sự ấy cho biết đơn xin nhập học của tôi đã được Trường chấp thuận. Khát vọng được đi học lại là một cái gì chiếm ngự trọn vẹn tâm hồn tôi lúc ấy mà không một mãnh lực nào có thể cản được... bao nhiêu hình ảnh của các người thân vẫn còn ở lại Việt Nam, bao nhiêu đồng đội và bạn bè giờ đã lạc phương nào biệt vô âm tín, tâm trạng buồn bã tuyệt vọng ngày rời trại Orote Point ở Guam cùng làn sóng người Việt tị nạn chia ra đi về những phương trời vô định...Nhớ làm sau những nét lo âu phân vân rối bời của những anh em cùng phục vụ  trên chiến hạm ngày bỏ nước ra đi, lưỡng lự phút giây đi ở sống còn vì người thân còn kẹt lại ở quê nhà...nước mắt tôi nhòa ra mờ hết mọi cảnh tượng chung quanh... và tôi khóc tức tưởi đến ướt đẫm cả chiếc gối...
Từ đó tôi theo dòng đời dong ruổi bận rộn miệt mài. Từ khi tốt nghiệp kỹ sư rồi đi nhận việc làm tại Houston TX, rồi di chuyển sang Nam California làm việc với McDonnell Douglas, Boeing, và đến nay đã hơn 35 năm, tôi vẫn còn kỷ niệm đáng nhớ nhất về Mục Sư Phillips. Đó là ngày ông hướng dẫn tôi và 3 người Việt tị nạn khác đi thăm New York City với khu Rockefeller Center, Empire State Building, và hướng cho tôi một ánh nhìn đầy ngưỡng mộ trìu mến về tượng Nữ Thần Tự Do hùng vĩ... chuyến đi đó đã ăn sâu vào tâm khảm tôi những giá trị về ý nghĩa của hai chữ Tự Do, bằng những hình ảnh to tát, cao cả và thâm thúy nhất mà chỉ có thể cảm nhận được từ con tim của 1 người tị nạn. 
Thêm một mùa Xuân đất Mỹ
Mùa Xuân năm nay thật khác với mùa Xuân đầu tiên trên đất Mỹ năm 1975. Sau những biến đỗi to tát đời mình, tôi tìm được chút giây phút tỉnh lặng ngồi nhớ lại không khí Tết ở quê nhà, thấy tết quê mình sao mà thiêng liêng sao mà ấm cúng thiết tha như thế. Thế là thân xác thì sống trong hiện tại mà hồn thì cứ tưởng nhớ những kỷ niệm đẹp xa xưa.
Một buỗi chiều nắng vàng nghiêng nghiêng ngoài khung cửa kính trên lầu căn apartment nhìn đại lộ ồn ào mé dưới của  thành phố Wilkes-Barre thung lủng của miền đông bắc Pennsylvania tôi cũng đã có lần ngồi lặng người tự hỏi tại sao mình hiện hửu? Rồi sẽ về đâu? Sẽ còn một thế giới nào khác giữa vũ trụ bao la? Tôi chợt nhớ về Einstein, nhớ lời kinh Bát Nhã "sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc", chợt nghỉ về những chặng đường trầm luân của một đời ngưòi ...
Như một câu tục ngữ Phi Châu: "Ðể nuôi nấng, un đúc, dưỡng dục một đứa con cho nên người, chúng ta cần sự hợp lực của cả một ngôi làng". Hôm nay số tuổi tam tuần ấy đã từng đến và ra đi băng bẵng từ khuya, tôi lại chợt muốn ghi nhận những ý tưỡng về miền đất thân yêu mà tôi đã lớn lên. Vùng trời hiền hoà đó đã cho tôi một quá khứ, tuy không được sơn son thiếp vàng trên nhung lụa, nhưng đầy ắp những hạnh phúc và tình thân yêu mà giờ đây tôi không bao giờ có thể tìm bắt được. Quá khứ đó là bóng mát nghỉ chân của kẽ lữ hành vẫn còn đang rong ruổi chuyến phiêu lưu vô tận giữa sa mạc cuộc đời. Nó là những gấm hoa kỹ niệm của vùng biển mặn quê tôi. Nó cho tôi một điểm tựa giữa bao bất trắc đổi thay của cuộc sống.
Trong Thiền vị an lạc của mùa Xuân trên đất Mỹ tôi ghi lại vài câu cảm tác:
Nếu ai hỏi ánh dương tỏa sáng
Xin trả lời có cũng là không
Nếu người hỏi vầng trăng thanh khiết
Xin trả lời có cũng là không
Nếu ai hỏi tim còn hình bóng
Xin trả lời có cũng là không
Nếu ai hỏi nhớ thương nhiều lắm?
Xin trả lời có cũng là không
Nếu người hỏi có còn ngôn ngữ
Xin trả lời có cũng là không
 
 Cát Biển