Biển Thương Chánh Phan Thiết
Ngày
xưa thế giới của tôi là một thế giới không thay đổi, gần như bất động.
Mọi người chấp nhận thế giới ấy và cố gắng an định trong bối cảnh xã
hội ấy. Từ bé chúng tôi học lễ nghỉa "tiên học lễ, hậu học văn". Lúc mới
học vỡ lòng gặp thầy đi ngoài đường là phải chạy đến cúi đầu chào thầy.
Và thành phố Phan Thiết sao mà hiền hòa bình
dị đến gần như dừng lại trơ gan cùng tuế nguyệt, chỉ chuyển động theo
một chiều - chiều của thời gian.
Trong
ký ức tuổi trẻ thơ ngây xa xưa mới tập tểnh đi học, tôi nhớ hình ảnh
của các bạn trẻ con "bên phố" bùng binh của một quê hương thật an bình
và hiền hòa Phan Thiết. Và một hàng chữ in nơi trang bìa tập viết mà tôi
còn nhớ mãi bao nhiêu năm nay. Ðó là mấy chử
"Ngày Nay Học Tập, Ngày Mai Giúp Ðời".
Ngày nay tôi phục vụ cơ quan cấp bằng phát minh của Hoa Kỳ (US Patent
and Trademark Office, USPTO). Công việc hằng ngày là phân tích và giám
định chuẩn phê các sáng kiến
từ các quốc gia nộp vào để cấp bằng phát minh. Công việc này là tích tụ
30 năm sau một hành trình từ một người tị nạn, qua 3 trường đại học,
làm kỹ sư cho các hãng Exxon, McDDonnel Douglas, Boeing, và đến USPTO.
Ngày xưa mẩu người đại trượng phu phải đầy đủ nhân, lễ, nghỉa, trí, tín. Ngày
nay một số các giá trị đó không còn quá cần thiết giữa một xã hội đa nguyên, hợp chủng.
Hôm
nay, qua một bờ Thái Bình Dương bao la, qua bao nhiêu bến xe, cảng tàu
đò, bao nhiên phi trường, qua bao nhiêu quốc gia, và cả một quãng đời
đổi thay hụt hẫng...giữa các tia nắng Xuân vàng óng ả mới le lói giữa
cơn giá tuyết mùa Đông, chợt nhớ về các hình ảnh ngày xưa là một điều
đầy thú vị...
Quê hương ngày xưa
Vào
những tháng ngày thơ ấu trong trí nhớ non kém mà tôi còn có thể hình
dung
được, cả phố Phan Thiết bình dị vừa chứng kiến nhiều dâu bể đổi thay
trong nước. Vua Bảo Ðại xuống, Ngô Ðình Diệm lên thay, sau một cuộc bầu
cử "trưng cầu dân ý". Tân Tổng Thống Ngô Ðình Diệm là người từng giử
chức Tuần Vũ Bình Thuận lúc mới tròn 21 tuổi,
một chức vụ tương tự như Tỉnh Trưởng sau này. (Sau cuộc đảo chánh năm
1963, giấy khai tử của ông có kê khai chức vụ của ông là "Tuần Vũ Bình
Thuận" chứ không phải là "Tổng Thống VNCH"). Ðồng bạc mới VN thời đó đó
có giá trị đáng kể. Chỉ cần hai cắc bạc chúng
tôi có thể mua được cả một rổ ốc ruốc về để chị em chúng tôi "lể" ăn
mệt nghỉ. Tôi nhớ lúc chánh phủ mới vừa cho lưu hành tiền mới, tôi cầm
đồng bạc mới do má cho, đi mua món trái cây trị giá năm cắc. Bà bán hàng
không thối lại năm cắc mà lại bà xé đôi đồng
bạc giấy trả cho tôi một nữa vừa được xé ra! Trong hoang mang tôi về kể
với các chị và ba má, thì mới hiểu lúc đó tân chính phủ vừa nhậm chức
chưa có tiền cắc mới để cho lưu hành.
Cùng
học chung trường thầy Giáo Nhiều, được gọi là thầy "Thẹo", là hầu hết
lủ trẻ đường Lê Văn Duyệt dảy nhà tôi; và dảy đối diện phía bên kia của
bùng binh, tức đường Nguyễn Văn Thành. Cùng học chung lớp nhi đồng thời
ấy có các con của các bác nhà sách Vui Vui, bác Năm Phùng, tiệm vàng
Thành Kim, tiệm vàng Mỹ Quang, tiệm may Mai
Xuân Trượng v.v...bên kia đường là con của bác chủ tiệm xe đạp Tân Lập,
Lê Chánh Ngử... có cả hai chị em Thanh và Bạch cháu cô Nam Phong tiệm
vải nhà ở đường Ðinh Tiên Hoàng lối vào chợ, phía trong tiệm billiard
chú "Buộc" nữa. Bên phố Gia Long các tiệm Vĩnh
Hưng, Phước Hưng, kéo dài đến tiệm sách chú Bé Vĩnh Lợi cũng đều gửi
con học chung trường này... Sau ngày anh cả tôi mất lúc vừa 2 tuổi, mẹ
tôi sinh chị Anh rồi chị Nam. Lúc sanh được con trai, người mình có tục
lệ hay cho đeo khoen ở tai để khỏi bị ông bà
"bắt", bỏ qua không xem xét vì ngở là con gái. Tôi và Hiệp con bác Tân
Lập đều rơi vào hoàn cảnh đó. Hiệp con bác Tân Lập vẫn thường được các
bạn bè thân yêu gọi là Hiệp Lé, sau này được người chú tập đánh trống,
trỡ thành 1 tay trống xuất sắc cho các ban
nhạc. Hiệp khi đi học vỡ lòng vẫn còn mang khoen ở tai giống như tôi.
Bây giờ mỗi khi sờ lên cuối vành tai trái tôi vẫn còn dấu lổ tai đeo
khoen ngày xưa, mặc dầu lổ ấy đã được lấp kín từ lâu. Và như vậy mốt đeo
khoen của các con trai ngày nay tôi cũng đã
có từng nếm qua từ bé... Vì cha tôi hay thách thức tôi từ nhỏ với các
bài toán nhân toán chia rất dài rất khó, nhưng nếu làm đúng sẽ được
thưởng 1 đồng, thậm chí có khi ba đồng đủ ăn một tô hủ tíu mỳ tuyệt vời,
nên tôi rất yêu thích Toán. Và cũng là dễ hiểu
khi sau này tôi xem Albert Einstein như một thần tượng, với nhiều khao
khát được đi học để mỡ mang kiến thức. Albert Einstein, nhân tài lỗi lạc
nhất thế kỹ 20 của loài người tuy chỉ hiện diện trên quả đất vỏn vẹn có
76 năm ngắn ngủi nhưng những đóng góp vô
song của ông vào kho tàng kiến thức của nhân loại đã đẩy loài người vào
những cao độ mới, những quỹ đạo mới của các đẵng cấp tinh khôn.
Vào
những năm trước 1960 khi đất nước đã hồi phục được phần nào giữa những
biến động triền miên, gia đình tôi đã tạo được cơ sỡ làm ăn vững vàng
với tiệm may Phan Sinh kế bên nhà hàng Nam Thạnh Lầu. Trong nhà đông
người nhộn nhịp những năm ấy với hơn mười thợ may nam nữ, chiều nào nhà
cũng tràn ngập hạnh phúc với tiếng đố vui, tiếng
vui cười đùa cợt của những anh chị thợ may thi đua nhau xem ai may cắt
nhanh và đẹp nhất. Thậm chí có khi các anh chị thợ may còn ngũ lại trong
nhà qua đêm. Dạo ấy có chú Phán là 1 thanh niên trẻ tuổi, người vui
tính hay đờn ca xướng hát và cười giỡn nhiều
nhất. Có đêm tôi và Ba đi xem xi nê về thấy các cô cậu còn giỡ bàn xoay
Cơ giữa đêm khuya, với nét mặt vừa tò mò vừa nhút nhát của các chị
thiếu nữ bên ánh nến lung linh, và miếng Cơ - làm bằng gổ từ hòm người
chết - chạy rèn rẹt trên bản đồ giấy. Sau này
15 năm sau chú Phán có ghé về thăm nhà tôi, chàng thanh niên vui tính
hay cười đùa dàn hát dạo đó đã thành một tu sỉ, nghiêm chỉnh trong bộ
nâu sòng. Những êm ấm ấy, dầu xen lẫn với bao thiếu thốn vật chất, đều
đã tan biến vào những năm khi Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam ra đời với khủng bố của chiến tranh, như cơn gió đen tàn bạo
thổi vào thành phố.
Từ vùng biển mặn đến Sài Gòn mỹ lệ
Quê
tôi chỉ cách Sài Gòn 200 cây số. Nếu tuổi ấu thơ của tôi có thể ví như
mực nước sông Mường Giang bình dị của Phan thành, thì tuổi lớn lên của
tôi phải ví như những đợt sóng Thái Bình Dương ồ ạt. Tôi được gửi vào
Sài Gòn học theo chân người chị kế vào Sài Gòn học - chị Minh, mà sau
này mấy ông thư ký trong xóm kém chử nghỉa làm
giấy tờ viết lộn tên của chị, kêu theo thứ thành tên "Năm", để rồi sau
này được đổi lại thành Nam cho dể nghe. Năm thi trung học, chị Nam đậu
hạng Bình, được nhận vào trường nữ Gia Long ỡ Sài Gòn. Chị có khiếu học
sinh ngử, có nét xinh đẹp và bản chất thông
minh nên thường có nhiều thanh niên theo đuổi. Gia đình muốn tôi cùng
vô Sài Gòn học với chị để có chị có em cho vui. Người Pháp có nói
"Ði là chết trong lòng một ít".
Làm sao tôi quên được những đêm ngồi khóc thấm thía bên một góc tối sân
thượng nhà Dì Hai chỉ vì một anh nghệ sỉ lãng mạng nào đó ỡ cuối hẻm Lê
Văn Duyệt Sài Gòn, góc Phan Đình
Phùng, đã thổi những tiếng sáo trầm uẩn não nề như cắt xé lòng kẽ xa
nhà ra từng mãnh vụn. Và nhất là những ngày chuẩn bị về quê, từ rựng
sáng chị em tôi thức dậy thật sớm để đón xe xích lô máy nổ bình bịch,
náo nức ra bến xe đò để về Phan Thiết nghĩ Tết.
Tuy nhớ nhà thương quê nhưng cái quyến rũ, cái náo nhiệt của Sài Gòn
cũng khó mà cưỡng lại. Nếp sống nhộn nhịp, phồn hoa và táo bạo ấy tấn
công tâm hồn trai trẽ vụng dại trong tôi như một cơn bão lốc. Hằng ngày
học cùng lớp với những tên bạn lúc nào cũng nhai
chewing gum, mặc quần jeans, đi Vespa, sáng sáng vô lớp chỉ kể chuyện
đi "boum" (tức đi party) thật là khác xa với những người bạn cần mẫn
chất phát quê nhà hằng ngày gắng đạp ngược gió những chiếc xe đạp củ kỹ
từ Phú Long qua sỡ muối lên Phan Thiết học, hoặc
có kẽ đi miệt mài hằng mấy cây số mới đến trường - và thông thường hay
bỏ học vào những năm Ðệ Tứ, Ðệ Tam để đi lấy vợ hoặc đi cảnh sát. Rời xa
những người bạn thân thương nối khố với những nụ cười dể dải hồn nhiên,
vào Sài Gòn ngồi chung lớp với các cậu thanh
niên chuyên ăn chơi thưỡng ngoạn nhạc ngoại quốc thường hay tán gẩu về
Sylvie Vartan, Cliff Richard, Elvis Presley và ban The Beatles quả là
một sự thay đổi đầy trái ngược. Những tháng đầu tiên vào trọ học Sài Gòn
hồn tôi đầy những trống vắng hoang vu làm
sao vì nhớ nhà nhớ bạn giữa một thế giới náo nhiệt chung quanh.
Mỗi
chuyến về thăm quê Phan Thiết như vậy là để tìm về với những ấm cúng
thân
yêu của gia đình với gỏi cá mai, cơm gà, mì quảng với những câu chuyện
vui và hấp dẫn do cha tôi kể mà mọi người chúng tôi náo nức muốn nghe.
Bao năm trường lớn lên, ngoài tính chất nghệ sĩ được hấp thụ từ cha,
chúng tôi được Ba kể cho nghe không biết là bao
nhiêu chuyện hay. Từ những chuyện đường rừng lạ lùng kỳ hoặc, chuyện ma
Bình Thuận kinh dị, những mẩu chuyện Ngàn Lẻ Một Ðêm kỳ thú của vương
quốc Ba Tư, những chuyện tếu và ý nhị như loạt chuyện Thi Nói Láo đăng
trên báo thời bấy giờ, những mẫu chuyện sâu
sắc từ quyển "Ðể Trỡ Thành Một Vĩ Nhân", đến những chuyện Tam Quốc Chí
nêu cao cái hay đẹp trong thuật xử thế của người xưa, chúng tôi đã học
hỏi không biết bao nhiêu điều qua những mẩu chuyện hấp dẫn từ cha tôi.
Chị Nam (tức Hoàng Minh) là một người giỏi
về văn thơ, lúc nào cũng yêu đời, hay kể các chuyện vui Sài Gòn, nhất
là chuyện các cô nữ sinh Gia Long tinh nghịch, với lối pha trò và điệu
bộ rất dí dõm. Các em Yến và Hà luôn lăng xăng quấn quít bên các anh chị
từ xa về để góp tiếng cươì chung. Mỗi dịp
các con về, mẹ tôi không bao giờ quên nấu những nồi canh chua thật ngon
với đủ thứ cá tươi, giá, rau thơm, ngò, me, bạc hà, và nước cà chua
vàng óng ánh đặc sản của Phan Thiết mà chúng tôi không còn được thưỡng
thức khi vào Sài Gòn. Hình ảnh nồi canh chua
vì vậy in khắc trong trí tôi trỡ thành biểu tượng cho sự hi sinh của
người mẹ nói chung và người mẹ Phan Thiết thân yêu của chúng tôi nói
riêng. Lúc hai chị em tôi trọ học ỡ Sài Gòn, mỗi lần có người vào Sài
Gòn mẹ tôi thường hay gửi 1 nồi cá nục kho tặng
Dì Hai, kèm cả một bầu trời thương yêu trong lá thư của mẹ. Thư của mẹ
gửi chúng tôi có nét chử nghuệch ngoạc của bậc tiểu học nhưng đầy ý
nghỉa của một người hiểu đời. Bà mẹ ấy không bao giờ quên quá khứ khổ
nhọc và đã cố gắng dành hết những hạnh phúc cho
các đứa con. Người mẹ ấy trước kia là một thiếu nử xinh xắn tại Phú
Long, chị cả của một đàn em đông, chỉ được học xong lớp Ba. Vì thuỡ mới
lớn nghèo khổ, mẹ phải phụ gia đình làm bánh bông lan bán nuôi đám em
nhỏ dại. Bà gặp Ba tôi cũng là người anh cả trong
một gia đình đông con tại Phan Rí, cũng không kém phần khổ cực. Ngày ba
má tôi lấy nhau, cả hai gia đình đều khóc vì mất đi người phụ lo cho
hai bầy em hai bên. Vì không một mảy may vốn liếng gì để làm ăn, ba tôi
phải trôi dạt sang tận bên Miên (Cam Bốt) theo
theo bác Tư Sào ba anh Nguyễn Văn Cao để học nghề may. Sau này bác Tư
Sào về lại Phan Thiết mỡ tiệm cầm đồ Phước Lợi. Trong cảnh bần cùng khó
nhọc đó, ba tôi cuối cùng dành dụm được một ít tiền về lại Phan Thiết để
bắt đầu một cuộc đời mới. Mẹ tôi rất khéo
về buôn bán với lối giao tình thân mật với các khách hàng của bà. Chỉ
một vài năm bán hàng trong chợ, bà đã mỡ rộng các gian hàng theo số
thương vụ gia tăng. Chiều chiều mẹ tôi mua chè đậu xanh cho chúng tôi
ăn, đến mùa mãng cầu, xoài, hay măng cụt mẹ tận
tụy đem về cùng ăn với đám con. Có lẻ không gì đáng nhớ cho bằng một
điều đặc biệt là mỗi khi đi đâu về nhà mẹ tôi đều mang về một chút quà
cho con, dầu chỉ là 1 trái ổi, trái quít hay chỉ là một củ khoai. Tôi
thích Sài Gòn với nhịp đập của cuộc sống mãnh
liệt, mỹ lệ với các thời trang hấp dẫn, và vui tươi với nhiều mục giải
trí. Nhưng tôi thương yêu thành phố Phan Thiết bình dị hiền hoà quê tôi
bỡi đó là đất của những kỹ niệm thân thương, của những rung động và nhận
thức đầu đời.
Thế hệ của Cha
Những
năm đó sự tàn phá của chiến tranh càng lúc càng dử dội. Một buổi chiều
mùa hè khi được tin từ Sài Gòn nhắn về Phan Thiết cho biết tôi thi đậu
Tú Tài 1, ba tôi sung sướng khoác vai tôi, hai cha con cùng đi bộ một
quãng đường dài khá xa; từ nhà ngang qua trường tiểu học Ðức Nghiả, vòng
qua ty Cảnh Sát, rồi mới trỡ về lại nhà. Trên
đường đi, ông rưng rưng siết vai tôi kể lại đời ông và chuổi ngày ông
đi học trong những điều kiện cực kỳ khó khăn, khiến mắt tôi ướt đẫm lúc
nào. Ông ra đời năm 1918 vào một buổi chiều cuối năm âm lịch khi chợ Tết
sắp tàn. Ông nội tôi chết sớm, bà nội tôi
phải chật vật nuôi đàn con thơ. Ba tôi thân phận mồ côi cha, phải kiên
trì chịu đựng lắm mới được đi học sau những giờ làm lụng vất vã. Ngày đổ
bằng Sơ Học, ông được đưa về làng như cảnh tượng vinh quy bái tổ. Cho
đến ngày nay, tôi vẫn không bao giờ quên được
kỹ niệm buổi chiều hai cha con đi bộ ngày hôm đó. Ba tôi có chử viết
rất đẹp dầu cả quãng đời niên thiếu của ông đầy giẩy những cơ cực. Ðiều
mà tôi nhớ mãi ỡ cha là chiều chiều ông hay ra các bài toán nhân hoặc
chia thật khó cho tôi làm để khích lệ tính hiếu
học trong tôi. Chính những kỹ niệm đặc thù đó đã thúc đẩy kích thích
tôi yêu thích mê say môn toán như những nhà vỏ sĩ sẳn sàng lăn xả vào
đấu trường. Sau này khi sang Mỹ, và suốt cả cuộc đời mài đủng quần tại
các trường học, môn Toán đối với tôi vẫn là một
thú tiêu khiển thích thú đầy thi vị hơn là một môn học khó nuốt. Nhờ
công việc dạy kèm Toán tại các trường đại học Hoa Kỳ tôi đã có thêm ít
tiền còm để chi dụng những tháng ngày theo đuổi việc học.
Dạo
đó Ba tôi không còn đi lưu diển với đoàn hát cải lương thành phố nữa,
về lại Phan Thiết lập nghiệp với tiệm may Phan Sinh. Tuy nhiên các diễn
viên củ trong đoàn hát như cô Út, chú Tao Ngộ, chú Võ, v.v... vẫn ghé
thăm nhà tôi để cùng đờn ca xướng hát các bài bản ưng ý cuả thời đi lưu
diễn. Thỉnh thoảng ba tôi vẫn ngân nga những
bài ca xưa, cả những khi ông đang cắt vải thoăn thoát theo đường phấn
kẻ màu xanh với chiếc kéo cắt thật bén và lớn, hoặc lúc chân đang dạp
đều nhịp chiếc máy may với đôi tay ông lèo lái các đường vải. Các máy
may khác trong nhà chạy đều theo nhịp đạp của
các thợ chính, thợ phụ, hoặc các anh còn đang tập sự. Các anh thợ thanh
niên thì dạn dĩ hay ca góp vui nối tiếp theo ba tôi, hoặc có người ra
câu đố, hoặc kể chuyện vui. Các người giúp việc đôi khi cũng trở thành
đề tài cho các thanh niên giởn phá. Các chị
thợ thường chỉ phụ đơm khuy và kết nút, tham gia cuộc vui một cách kín
đáo hơn bằng các tiếng cười dòn. Chị Sáu thường bị các anh thợ chiếu cố
trêu ghẹo suốt ngày vì chị có nét xinh ở tuổi dậy thì. Sau giờ làm việc,
các anh chị vẫn còn tiếp tục lân la kể chuyện
vui hoặc đờn ca trong phòng khách lầu dưới. Mé sau căn nhà, trên lầu
hai có một bức tường bằng gạch, được xây hơi kiểu cọ, chừa khuyết một
vòng tròn khá lớn như vầng trăng khiến cho người trong nhà có thể nhìn
được ra sân thượng ở mé sau. Chị cả cuả chúng
tôi, chị Hoàng Anh, thường leo ngồi vào vòng trăng đó, thả chân đong
đưa vừa ca các bài như
"Ánh trăng trắng ngà, có cây đa to..."
Dạo ấy chị Anh đã là 1 thiếu nữ cao và thon gầy trong chiếc áo dài
trắng. Trong khi chị Hoàng Minh (tức chị Nam) vẫn còn học trường Nữ bậc
tiểu học, chị Anh đã vào học trường
Phan Bội Châu, được ba má tôi mua cho một chiếc xe đạp mà lúc nào chị
cũng giử bóng loáng. Lúc sau, theo phong trào Velo Solex, chị cũng có 1
chiếc Velo thay cho xe đạp. Chị theo sát ba tôi từ những dịp đi lưu diễn
hay cả những lúc ba đi đá banh bên Sân Vận
Ðộng. Các cầu thủ đá banh mặc quần shọt, áo may ô và mang giầy đinh. Có
lần trên sân banh, khi chị Anh đang giử áo quần của ba tôi vừa thay ra,
một thanh niên đến nói với chị là
"Ba của cô kêu tôi đến nhờ cô đưa quần áo cho ổng thay"...
Chị Anh bèn đưa hết quần áo, có cả bóp và tiền bạc. Ðến khi ba tôi đá
banh xong, trỡ lại lấy quần áo đi thay, mới biết chị Anh đã bị kẽ lạ gạt
lấy hết
quần áo giấy tờ. Em Hoàng Yến kế tôi hảy còn bé chưa đi học, và em
Thanh Hà chỉ mới chập chững biết đi. Trong các bài ca mà tôi nghe ba tôi
ca, có một bài với lời thật ngộ nghỉnh khiến tôi theo hỏi và được ba
cho biết là do bác Trúc Viên Trương Gia Kỳ Sanh
sáng tác, thời bác còn làm bầu gánh hát - thời thật xa xưa trước khi
bác trở thành Dân Biểu Bình Thuận. Bài hát này các chị em chúng tôi sau
này đều thuộc lòng (và trở thành bài ca chung trong những dịp vui mỗi
khi gia đình hội ngộ):
Mau vô trỏng, cúi đầu thưa
với ổng
Rằng tôi đợi ngoài cổng
Rồi trở ra mau nói, để cho
tôi thăm hỏi
Kẻo chờ lâu cẳng mõi
Ông quan ấy thân với tôi
lắm đấy
Tôi với ổng họ Trình
Trình ấy làm Quan
Còn Trình này thì bán quán
giữa rừng "hoang"
Quán với Quan cũng gần
Quan với Quán một vần...
Những lúc cả nhà theo tiếng đờn cuả cha tôi quây quần ca hát, mẹ tôi thỉnh
thoảng cũng ca góp một bài với lời lẻ thật xa xưa
"Dạ dạ dập đầu ... Thưa chuyện với chị dâu ..." Có một bài ca rất
dài mà lủ chúng tôi rất thích nghe giọng của Ba ca với những hơi ngân,
những nhịp ngắt với tiếng song lang gỏ nhịp tài tình truyền cảm điệu
Xàng Xê, hoặc khúc lái ngân nga lên xuống giọng
thật đặc biệt, khiến cho người nghe cãm thấy như có một làn mây ấm cúng
nào đó đang vây quyện khắp không gian:
Hậu đô Bắc Hà,
Vào triều Lê Cảnh Hưng năm
thứ 46,
Hân hạnh được cung nghinh
Ðức Bình Bắc Tướng Quân Nguyễn Huệ
Thống lảnh đại đội binh
hùng
Hát khúc khải hoàn vào cổ
lủy Thăng Long
Sau khi bình giặc đã thành
công
Nhưng vì thấy Lê Trịnh tranh
hùng muôn dân đồ thán
Cho nên Nguyễn Tướng Quân
phải diệt Trịnh phù Lê
Tảo trừ bọn Trịnh tư quyền
là Trịnh Tứ Phương
Hạ thành sơn nam...
Sau
những quãng đời khó khăn vật vã truân chuyên với cuộc sống từ những
ngày
Tây về ruồng bố bắt dân, rồi chuyến lưu lạc sang tận Cam Bốt học may,
cha mẹ chúng tôi vừa mới bắt đầu gầy dựng được một cửa tiệm may để sinh
nhai với những điều tạm gọi là yên ổn của mái ấm gia đình, tuy đơn sơ
nhưng tràn đầy hạnh phúc. Bỗng nhiên một hôm
cần tiền, người chủ căn phố nhà chúng tôi đang ở trỡ về lại Phan Thiết
và quyết định bán căn nhà thật gấp, chứ không cho gia đình tôi thuê nữa,
mặc dầu thời hạn thuê mướn vẫn còn và công việc làm ăn của ba tôi đang
đà phạt đạt. Vì giá bán căn phố quá cao cha
mẹ tôi không đủ tiền để chồng mua căn phố ấy, gia đình chúng tôi đành
phải quyết định dọn đi.
Thời mới lớn
Ðậu
xong Tú Tài 1 tôi trỡ về trường Phan Bội Châu tại Phan Thiết học lớp Ðệ
Nhất, hồn tôi đầy những thương tích rã rời không kém gì thể xác phí
phạm với men rượu và khói thuốc thâu đêm bên cạnh lũ bạn thân. Ðấy là
những năm tôi uống những lon bia đầu đời, yêu thích nhạc Trịnh Công Sơn
như các người trẻ khác. Chúng tôi bắt đầu hướng
về các ý niệm và nhận thức của tuổi thành niên: quân dịch, đại học, du
học, tình yêu, cuộc đời và thân phận. Cả tên bạn thân Nguyễn Xuân Hùng
và tôi đều thích bản nhạc "Tình Khúc Thứ Nhất", thơ của Nguyễn Ðình Toàn
do Vũ Thành An phổ nhạc. Chúng tôi say mê
các truyện "Bếp Lửa" của Thanh Tâm Tuyền và truyện dài "Ung Thư" của
ông trên tuyển tập Văn. Rồi đến các bài thơ học trò của Nguyên Sa mà
điển hình là bài Áo Lụa Hà Ðông. Dạo đó có bản dịch của nguyên tác La
Porte Etroite (Khung Cửa Hẹp) của André Gide, Bùi
Giáng dịch, mà chúng tôi rất thích, với hai câu thơ trích từ bài thơ
Khúc Ly Ðình của Cao Thị Vạn Giả khi người yêu sắp đi du học phương xa:
Tiễn chân anh tận phi trường
Lỗi đi lỗi ỡ mười phương
lỗi về
Mù sương phi cảng nảo nề
Thôi anh ỡ lại buồn về em
mang
Tiễn anh một chén rượu tàn
Một bàn tay nắm một hàng
lệ mau...
Bạn
bè chúng tôi bắt đầu biết suy tư, rất vui, nhưng lủ chúng tôi đã qua
khỏi
tuổi hồn nhiên mất rồi và trỡ thành đối tượng quân dịch để đáp ứng nhu
cầu chiến sự ngày một gia tăng. Những người bạn suýt soát cùng lứa như
Bá Long, Nam Bò, Dũng Lọ và nhiều bạn bè khác đều tuần tự phải nhập ngủ.
Sử đi SQ Thủ Ðức. Nam Bò đi Thuỷ Quân Lục
Chiến, chết tại vùng 4. Dũng Lọ em anh Nguyễn Kim Hùng đi SQ Thiết
Giáp, bị mất tích. Cùng ỡ lại Phan Thiết có Diệu Lý, Cu Tân, Hùng, Quang
và tôi. Sau Tết Mậu Thân chiến cuộc càng tàn khốc. Nguyễn Xuân Hùng,
Nguyễn Trung Quang và tôi vào Sài Gòn học đại học.
Quang được học bổng đi du học nhưng vào học Quốc Gia Hành Chánh vì tuy
cùng đi chơi như lủ chúng tôi, hắn đậu Tú Tài 2 hạng Bình. Các bạn ỡ Sài
Gòn như Trần Văn Toàn và Nguyễn Thành Vân được gia đình gửi đi du học
tự túc sang Ðức, và sau này đều lấy vợ Ðức.
Hùng và tôi cùng học Luật và kinh tế tại Ðại Học Vạn Hạnh. Một hôm sau
khi nhậu say đã đời, Hùng và tôi cùng quyết định tình nguyện đi Hải
Quân.
Tuy
chuyến về quê nào đối với tôi cũng là những chuyến thân thương như về
miền đất hứa, cũng có những chuyến về kém vui tươi vì những mất mát.
Sau khi tốt nghiệp Khóa 20 trường SQHQ Nha Trang, tôi phục vụ tại Vũng
Tàu, được đi xuất ngoại du tập (lúc mang Trung Úy) và phục vụ trên các
chiến hạm HQ-800, HQ-802. Một trong những lần
về thăm Phan Thiết buồn bả nhất là khi được tin em Yến chết. Tàu HQ-800
tôi vừa đi công tác quần đảo Trường Sa về đến bờ thì được một người
quen cho biết em gái tôi bị chết đuối tại biển Thương Chánh. Tôi xin
phép hạm trưỡng về Phan Thiết gấp. Buổi chiều từ
mộ em Yến ỡ bia đài về, tôi chưa bao giờ thấy căn nhà mình trống trải
lạ lùng đên thế. Như một chiếc răng lược đã gảy, sự vắng mặt của em thật
là hiển nhiên. Mỗi khi tôi bước lên lầu, đi lên nhà trước hoặc ra sau
nhà, đâu đâu cũng thấy hình bóng em ẩn hiện.
Trước đó, chị Nam thấy điềm báo mộng chẳng lành về em Yến, chị đã về
Phan Thiết trước tôi và làm mấy câu thơ viết trên một tấm trướng lớn lúc
đưa tiển theo quan tài của em Yến:
Em chết vội không thời giờ
trang điểm
Giùm cho em nhan sắc nhuốm
xanh sao
Hai mươi tuổi thú vui đời
chưa hưỡng
Em nỡ lòng về tiên cảnh
đành sao
Như ai khư lại đống tro tàn dĩ vãng, buổi chiều xanh hôm ấy bên
mộ em, quá khứ như một dòng sông trôi về mênh mang trong tôi. Tôi có
cãm tưỡng trong lòng mình cây cối mọc hoang vu. Nước mắt tôi chảy tự
nhiên, từ một con tim rủ rượi.
Đoạn đường cuối của Cha
Vào
tháng 4 năm 2002, Tôi từ Nam Cali và chị Hoàng Nam từ Minesota cùng hẹn
nhau qua Philadelphia thăm Ba. Trí nhớ của Ba như đã cạn hẳn. Người cha
yêu dấu với ngón đàn du dương, làn hơi truyền cảm và giọng kể chuyện
đầy mê hoặc, người đã mang hình ảnh Tết thiêng liêng về bên bàn thờ tổ
tiên mỗi mùa Xuân cho gia đình chúng tôi giờ
chỉ còn là một thân xác gầy gò, tóc bạc sương, ngồi xe lăn với cặp mắt
nhìn trống rỗng thờ thẩn xa xôi vào hư vô. Ba chỉ cười nhìn các con,
nhưng nét tinh anh sắc bén của tầm mắt không còn nữa. Ba như ngọn đèn
leo lét trước gió. Một năm sau đó Ba vĩnh biệt
cuộc đời. Ba mất đi để lại nhiều kỷ niệm về một thời rất đẹp với quê
hương khi gia đình còn có những buổi ăn tràn đầy tình thương yêu lúc các
con của Mẹ còn quây quần đông đủ bên quầy canh chua cá nục kho tuyệt
vời và thèm khát lắng nghe những chuyện kể đầy
thích thú mê hoặc của Ba.
Nhắc
đến mẹ, tôi nhớ nhất là những lúc mẹ đi buôn bán chiều về nhà. Mẹ luôn
kêu tôi cho trái ổi, trái quýt, trái cam. Khi thì được trái xoài, măng
cụt. Tiếng yêu thương của mẹ tôi là như thế. Không phải bằng lời nói
"yêu thương" mà là cái nhìn âu yếm trìu mến, cái vuốt đầu khi mẹ sung
sướng. Vậy mà khi sang Mỹ rồi, ai cũng lo phấn
đấu với cuộc sống mới. Chợt nhớ lại những lúc tôi cằn nhằn mẹ vì mẹ đổ
thuốc tẩy vào máy giặt quá nhiều làm rách hư hết mấy bộ quần áo hiếm
hoi, hoặc khi mẹ rang popcorn trong microwave lâu quá làm cháy khét cả
nhà. Mẹ tôi đành lặng im không đáp. Trời ơi,
thấy mình sao kém cỏi nhỏ mọn quá quá. Sao mình không biết lựa lời để
mẹ khỏi đau lòng. Bây giờ cha mẹ đã khuất núi rồi, làm sao mình sánh với
những tình thương và hạnh phúc cha mẹ đã từng ban cho trong quãng đời
khốn khổ kia.
Đất Mỹ những ngày đầu
Năm
1975 thành phố Wilkes-Barre PA tăng thêm một dân số, mà phải nói là một
"khách trọ" thì mới đúng. Đó là hình ảnh của một thanh niên tị nạn trẻ
với nhân dáng gầy gầy, mái tóc phủ tai, với đôi mắt đăm chiêu, một nụ
cười khô khan không trọn vẹn, và một tâm sự ngổn ngang những nỗi niềm,
bước những bước chân xa lạ bỡ ngỡ trên con phố
Main Street của thành phố Wilkes-Barre, PA với tâm trạng buồn bã. Tuy
nhiên, miền đất mới này như trải rộng một lời mời gọi rất chân thành và
khoan dung. Nó thúc giục tâm hồn thanh niên tị nạn trẻ trong tôi một
nghị lực phấn đấu để vươn lên mà tôi không tài
nào cưỡng lại được. Tôi cố gìn giữ đóm ánh sáng của một ngọn nến bập
bùng, dầu đôi khi có bị nghiêng ngả tròng trành trước những gió mưa
giông bão của cuộc đời. Tôi nhớ lời của vị thầy dạy học tôi thời niên
thiếu, người đã mang tôi ra khỏi bóng tối của khờ
dại và bước vào vùng ánh sáng của lý tưởng với lời khuyên còn vang vọng
từ thuở bình minh của tâm hồn
"Các con hãy
sống chân thành, sống đầy nghị lực, hãy đi tìm ý nghĩa của cuộc đời...
và rồi hạnh phúc sẽ đến với con, với một niềm mãn nguyện.."
Người
lữ hành đó đang mò mẫm đi tìm một điểm đến, một nụ cười, hay phải chăng
là một mùa Xuân...Đầu niên học kế, do lời khuyên của một người bạn, tôi
tập trung mọi can đảm đến gặp vị Dean of Admission của trường Đại Học
Wilkes để xin nhập học. Vị Giám Học (Dean) này mới ngoài 40 tuổi, rất
cởi mở và tận tâm khi gặp tôi. Tôi rất ngại
ngùng, nhưng nhờ vào sự tin tưởng ấy của ông mà sau khi tính hết tất cả
các khoản học bổng ông có thể xin được cho tôi, cuối cùng ông cho biết
khoản học phí rất cao của tôi có cơ hội sẽ được thanh thỏa đầy đủ! Ba
tuần sau, tôi sung sướng và cảm động biết bao
khi nhận được 1 lá thư có in dấu hiệu trường Wilkes lịch sự ngoài phong
bì chuyển đến phố Allentown nơi tôi đang làm thợ dệt cực nhọc ca khuya
(graveyard shift). Lá thư gọn ghẽ và lịch sự ấy cho biết đơn xin nhập
học của tôi đã được Trường chấp thuận. Khát
vọng được đi học lại là một cái gì chiếm ngự trọn vẹn tâm hồn tôi lúc
ấy mà không một mãnh lực nào có thể cản được... bao nhiêu hình ảnh của
các người thân vẫn còn ở lại Việt Nam, bao nhiêu đồng đội và bạn bè giờ
đã lạc phương nào biệt vô âm tín, tâm trạng
buồn bã tuyệt vọng ngày rời trại Orote Point ở Guam cùng làn sóng người
Việt tị nạn chia ra đi về những phương trời vô định...Nhớ làm sau những
nét lo âu phân vân rối bời của những anh em cùng phục vụ trên chiến
hạm ngày bỏ nước ra đi, lưỡng lự phút giây
đi ở sống còn vì người thân còn kẹt lại ở quê nhà...nước mắt tôi nhòa
ra mờ hết mọi cảnh tượng chung quanh... và tôi khóc tức tưởi đến ướt đẫm
cả chiếc gối...
Từ
đó tôi theo dòng đời dong ruổi bận rộn miệt mài. Từ khi tốt nghiệp kỹ
sư
rồi đi nhận việc làm tại Houston TX, rồi di chuyển sang Nam California
làm việc với McDonnell Douglas, Boeing, và đến nay đã hơn 35 năm, tôi
vẫn còn kỷ niệm đáng nhớ nhất về Mục Sư Phillips. Đó là ngày ông hướng
dẫn tôi và 3 người Việt tị nạn khác đi thăm
New York City với khu Rockefeller Center, Empire State Building, và
hướng cho tôi một ánh nhìn đầy ngưỡng mộ trìu mến về tượng Nữ Thần Tự Do
hùng vĩ... chuyến đi đó đã ăn sâu vào tâm khảm tôi những giá trị về ý
nghĩa của hai chữ Tự Do, bằng những hình ảnh
to tát, cao cả và thâm thúy nhất mà chỉ có thể cảm nhận được từ con tim
của 1 người tị nạn.
Thêm một mùa Xuân đất Mỹ
Mùa
Xuân năm nay thật khác với mùa Xuân đầu tiên trên đất Mỹ năm 1975. Sau
những biến đỗi to tát đời mình, tôi tìm được chút giây phút tỉnh lặng
ngồi nhớ lại không khí Tết ở quê nhà, thấy tết quê mình sao mà thiêng
liêng sao mà ấm cúng thiết tha như thế. Thế là thân xác thì sống trong
hiện tại mà hồn thì cứ tưởng nhớ những kỷ niệm
đẹp xa xưa.
Một
buỗi chiều nắng vàng nghiêng nghiêng ngoài khung cửa kính trên lầu căn
apartment nhìn đại lộ ồn ào mé dưới của thành phố Wilkes-Barre thung
lủng của miền đông bắc Pennsylvania tôi cũng đã có lần ngồi lặng người
tự hỏi tại sao mình hiện hửu? Rồi sẽ về đâu? Sẽ còn một thế giới nào
khác giữa vũ trụ bao la? Tôi chợt nhớ về Einstein,
nhớ lời kinh Bát Nhã "sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc", chợt nghỉ về những chặng đường trầm luân của một đời ngưòi ...
Như một câu tục ngữ Phi Châu:
"Ðể nuôi nấng, un đúc, dưỡng dục một đứa con cho nên người, chúng ta cần sự hợp lực của cả một ngôi làng".
Hôm nay số tuổi tam tuần ấy đã từng đến và ra đi băng bẵng từ khuya,
tôi lại chợt muốn ghi nhận những
ý tưỡng về miền đất thân yêu mà tôi đã lớn lên. Vùng trời hiền hoà đó
đã cho tôi một quá khứ, tuy không được sơn son thiếp vàng trên nhung
lụa, nhưng đầy ắp những hạnh phúc và tình thân yêu mà giờ đây tôi không
bao giờ có thể tìm bắt được. Quá khứ đó là bóng
mát nghỉ chân của kẽ lữ hành vẫn còn đang rong ruổi chuyến phiêu lưu vô
tận giữa sa mạc cuộc đời. Nó là những gấm hoa kỹ niệm của vùng biển mặn
quê tôi. Nó cho tôi một điểm tựa giữa bao bất trắc đổi thay của cuộc
sống.
Trong Thiền vị an lạc của mùa Xuân trên đất Mỹ tôi ghi lại vài câu cảm tác:
Nếu ai hỏi ánh dương tỏa
sáng
Xin trả lời có cũng là không
Nếu người hỏi vầng trăng
thanh khiết
Xin trả lời có cũng là không
Nếu ai hỏi tim còn hình
bóng
Xin trả lời có cũng là không
Nếu ai hỏi nhớ thương nhiều
lắm?
Xin trả lời có cũng là không
Nếu người hỏi có còn ngôn
ngữ
Xin trả lời có cũng là không
Cát Biển
No comments:
Post a Comment