Trong
dòng lịch sử Hồng Lạc, chúng ta có Mẹ Âu Cơ, quốc
mẫu của dân tộc Việt và được nối tiếp bởi một trái tim từ mẫu thời cận sử: Thái
Hậu Từ Dũ (Mẹ Vua Tự Đức nhà Nguyển), một trái tim nhân
từ của các bà mẹ Việt Nam:
Gió Động Đình mẹ ru con ngủ
trăng Tiền Đường ấp ủ năm canh
.. bống bồng bông, bống bồng bông
võng đào mẹ bế con rồng cháu tiên ..(ca dao)
Riêng
trong tín ngưỡng bình dân, ta có Thánh Mẫu Liễu Hạnh ở miền Bắc và Mẫu Thiên Y
A Na, dù phát nguồn từ Chiêm quốc nhưng từ thế kỷ XVI trở về sau, đã được người
Việt phụng thờ
, mà Hội Điện Hòn Chén hay lễ Viá Mẹ hằng năm vào rằm tháng bảy tại Thừa Thiên,
là một minh chứng . Ngoài ra, còn có Đức Phật Bà Quan Thế Âm Bồ Tát của Phật
Giáo và Đức Me Đồng Trinh Maria trong Ky Tô Giáo..
Tại
các nước Âu Mỹ, hằng năm đều cử hành long trọng ngày ‘ Nhớ Ơn
Mẹ (The Mother’s Day)’ . Tại các nước Đông Nam Á theo Phật Giáo, vào ngày rằm
tháng bảy âm lịch, đều cử hành long trọng Hội Vu Lan Bồn. Cả hai lễ hội trên,
tuy hình thức có khác biệt nhưng vẫn chung nội dung với ý nghĩa ‘ VINH DANH
CÔNG ƠN SINH THÀNH DƯỠNG DỤC CỦA TỪ MẪU ‘.Đây là một ngày lễ lớn và cũng là dịp
để con cái tu nhơn tích đức, làm việc từ thiện trả ơn, báo hiếu cho cha mẹ
mình, dù còn sống hay đã qua đời.
Thật
vậy, ngoại trừ đất đá và kẻ vô tri, còn vạn vật từ con người , muông thú cho
tới cỏ cây, đều do MẸ cưu mang và sanh thành. Cho nên nơi tâm tư của tất cả mọi
người, trong tiềm thức siêu thế, mơ hồ hay hiện thực , hình ảnh Mẹ luôn vẫn
trang đài, diễm tuyệt, đáng để ta tôn thờ và trìu mến, dù rằng ‘ công cha như
núi Thái Sơn ‘ còn mẹ hiền, chỉ như ‘ chuối ba hương, xôi nếp một và đường mía
lau ‘.
Nên
người đời ai cũng cần có mẹ, dù là trẻ thơ hay người trưởng thành. Những đứa
trẻ mồ côi, cho dù có được người thân còn lại nưng chiều, nuôi dưỡng tử tế cho
mấy, lớn lên cũng cảm thấy tâm hồn mòn héo, khô cằn. Bởi vậy, người đời đã viết
:’ mồ côi cha ăn cơm với cá, mồ côi me lót lá mà nằm ‘.Riêng người lớn tuổi,
khi mất mẹ, cảm thấy chơi vơi như mất điểm tựa, nên cũng cô đơn lạc lõng như
trẻ mồ côi.
Tóm
lại mẹ là nguồn gốc của mọi tình cảm yêu thương trên đời, cho ta biết thế nào
là ngọt bùi ấm lạnh và nguồn thương yêu cao cả của kiếp nhân sinh. Tình mẹ bao
la,
đã biến nữ hầu tước De Sévigné, một phụ nữ tầm thường, trở thành một nhà văn nữ
nổi tiếng của Pháp, cách đây 300 năm, qua những bức thư bất hủ viết cho mẹ.
Tình mẫu tử bao la trùng hằng miên viễn, đã theo thời gian trở thành nguồn cảm
hứng vô tận, như con thuyền bát nhã, đưa con người trần tục , đến gần các đấng
từ mẫu, trong mọi tôn giáo lớn của hoàn cầu.
Hằng năm cứ đến Tháng Năm, ở Hạ Uy Di,người Việt tị nạn CS
cũng đều hưởng ứng Ngày Nhớ Ơn Mẹ do địa phương tổ chực
rất long trọng và cảm động.. Trong không khí
trang nghiêm của ngày lễ, gợi cho kẻ ly xứ nhớ biết bao cái quang cảnh
chùa đình ở quê tôi Phan Thiết . Được theo mẹ lễ chùa trong dịp Tết Trung
Nguyên, để nghe chiêng trống vang rền khắp chốn, chiêm ngưởng hình ảnh các vị
Ni-Sư, áo mão rực rỡ, cầm gậy phép chạy đàn, xuống âm ty phá ngục để cứu chúng
sinh đang trầm luân trong địa ngục khổ ải. Ôi đẹp biết bao là hình ảnh của mẹ
tôi lúc đó, hình như người chẳng biết mệt mõi, khi cứ thắp hết bó nhang này tuần
hương khác, trước các bàn thờ khắp chùa. Mẹ bảo, làm lễ như vậy, để cho vong
hồn của ba con sớm được siêu thoát .
Trong kho tàng văn chương của dân tộc Việt, ta thấy còn lưu lại rất nhiều bài
hát ru, đọc lên thấy âm điệu rất là khoan thai, nhịp nhàng và nghệ thuật. Về
nội dung, hầu hết các bài hát ru trên, được xem như là lời của Mẹ hiền đang vỗ
về tâm hồn con thơ, nên rất gần gũi với mọi bà mẹ ở ngoài đời :
Gió mùa xuân, mẹ bâng khuâng hỏi
hoa trên đồi, hoa trên đồi
sớm tối còn hương
Có phải chàng Trương, gốc miền ma Xương..
xa vắng xóm làng vì đang ở chiến trường
hãy nín nín đi con, hãy ngủ ngủ cho ngoan.. ’ ’
Nói chung lời mẹ ru con, được đánh giá như một thứ âm nhạc nghệ thuật khởi đầu
và cuối cùng của đời người. Mẹ chính là người ca sĩ đầu tiên đối với con mình,
bằng cả một tấm lòng, qua tiếng ru và nhịp võng, tạo ra cả nguồn hạnh phúc trời
biển đối với tâm hồn trẻ thơ, với tình thương yêu dịu hiền, chứa đầy những khái
niệm đạo đức nhân nghĩa, như môt khúc dạo đầu, đưa con thơ vào nẽo đời hạnh
phúc.
Nay lớn lên sống lang thang khắp mọi miền đất nước, tình cờ có những đêm khuya,
đi qua những phố phường xa lạ, ngập đầy xe cộ và đèn trăng, bổng dưng thấy thèm
nghe lại tiếng khóc của trẻ thơ và lời ru của mẹ.
Ngày nay từ Âu sang Á và gần như ở đâu, cũng có những tượng đài , thơ văn, bài
hát, tuồng kịch .. để ca tụng công đức biển trời của người mẹ, mênh mông tám
hướng như biển Thái Bình. Bởi Mẹ là nguồn ngọn của mọi tình thương trên cõi đời
này . Mẹ cũng là một hình ảnh tuyệt diệu , diễm hằng, muôn trùng ngời sáng,
không bao giờ có thể thay thế được. Ôi sung sướng thay cho những ai còn Mẹ và
cũng tủi xót cho những người mất mẹ nửa đời, mỗi khi tưởng nhớ, chỉ còn lặng lẽ
ước ao ngóng về xóm nhỏ, nơi nhũng bờ bụi khóm tre, ngàn năm lau lách sạt xào.
Con đã bước qua hết hai phần đời, để được thắm thía rằng , chỉ có một nguồn
suối tình thương mang tên Mẹ, là vĩnh cửu không bao giờ khô chảy.
Ôi cảm động biết bao, khi nhớ lại ‘Tôi đi học‘ của Thanh Tịnh ‘Buổi mai
hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi,
dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp..’ hay nổi nhớ mẹ của Lưu trọng Lư ‘Tôi nhớ me
tôi thuở thiếu thời, lúc người còn sống tôi lên mười, mỗi lần nắng mới reo
ngoài nội, Áo đỏ người đưa trước dậu phơi..’ hay giai thoại của Hồng Hà Nữ Sĩ
Đoàn Thị Điểm, trước sự hỗn láo của tên sứ Tàu, đã lấy Me Việt Nam, làm đề tài,
khi bà ứng khẩu một câu đối trả đũa giặc:
Nam
canh nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh
(một
tấc đất ở nước Nam, không biết bao nhiêu người cầy)
Bắc
quốc đại trượng phu, giai do thử đồ xuất
(những
người anh hùng bên Tàu, cũng từ chỗ đó mà ra)
Câu đối vừa thanh lại vừa tục, hàm ý rằng dù là ai chăng nửa, thì cũng do Mẹ
sinh thành, không có người, thì chẳng bao giờ có con. Chẵng vậy mà nhà văn Pháp
Edmon de Amacid, đã viết trong ‘Tâm Hồn Cao Thượng’ Hà mai Anh dịch rằng:’Người
Mẹ sẵn lòng, đem một năm hạnh phúc của mình, để đổi một giờ đau đớn cho con.
Người Mẹ cũng sẵn sàng hy sinh cả tính mệnh , để cứu sống con mình. Con ơi,
suốt đời con , sẽ có những ngày buồn rầu đau thương, và cũng là chuỗi ngày sầu
thảm nhất: Đó là ngày con mất mẹ.
Giờ mới hiểu tại sao, có những đứa con, do hoàn cảnh mà phải tha phương , biệt
xứ, lưu lạc quê người, lại là những kẻ khao khát tình mẫu tử, nhung nhớ kỷ
niệm, dù rằng đó chỉ là những hình ảnh đơn sơ mộc mạc nơi chốn quê nghèo:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
trông về quê mẹ, ruột đau chín chiều
Mẹ ơi đừng đánh con đau
Để con bắt ốc hái rau mẹ nhờ
Ghe bầu trở lại về đông
Con gái theo chồng, bỏ mẹ ai nuôi ?
Đó là những câu ca dao hay nhất từ trước đến nay, đọc từ đầu đến cuối không tìm
thấy một chữ nào thần bí hay cầu kỳ nhưng trong ý nghĩa và mùi vị, thì đượm
thắm nồng nàn , khiến cho người ta phải đau khi nhớ và không cầm nổi nước mắt
thương nhớ khi thực sự đối mặt với chiều buồn. Cũng cùng trong cái hình ảnh
trên, người buồn hồn lại thêm buồn, khi nhà ai bên ngõ, bỗng dưng vô tình có
tiếng gọi con, trong khi lưng trời, chiều tàn, đàn chim về tổ, ríu rít gọi
nhau, làm cho nổi nhớ quay quắt không ngừng, khiến cho đứa con lạc bầy, bừng
bừng nhớ mẹ, rưng rưng nhớ lúc nói láo tránh đòn, khi về nhà trễ vì ham chơi
với bạn sau khi tan trường.
Rồi thì lưu lạc mười phương, cơ hàn đói lạnh, gian truân tù ngục, hận hờn
thương tủi, chỉ một mình con gánh chịu, chính là lúc nước mắt lưng tròng , bang
quơ tưởng tiếc, cái thời ngồi chờ mẹ về, để có những món quà của buổi chợ quê,
mà mẹ luôn dành sẵn:
cơm người khổ lắm mẹ ơi
không như
cơm mẹ, chỉ ngồi xuống ăn.
Mẹ là nguồn ngọn của mọi tình thương trên cõi đời, nên rất phù hợp với chân lý
của mọi tín ngưỡng, đều lấy nhân hiếu làm căn bản xử thế và hành đạo. Bởi thế
con người, trong lúc gặp hoạn nạn đau khổ, thì thường than thầm hay gào to :’
Mẹ ơi con khổ quá’ , đồng thời với lời cầu khẩn các đấng thần linh giúp đỡ. Do
trên , từ trước tới nay, tự đông sang tay, đã có mẹ hiền thì cũng không thiếu
gì những gương hiếu tử, đáng làm gương cho hậu thế soi chung muôn đời. Những
câu chuyện kể sau dây, chỉ là những chiếc lá lẻ loi trong rừng thơ, nhạc,
truyện, ký.. mà nhân thế kim cổ đã sáng tạo, để vinh danh những trang hiếu tử
ngời sáng muôn đời .
Trong kho tàng văn chương biÀnh dân của VN, cũng có nhiều thơ văn đề cao lòng
hiếu thảo của con đối với mẹ như Pham Công-Cúc Hoa, Lục Văn Tiên, Thoại Khanh
Châu Tuấn, Trần Minh khố chuối.. nhưng cảm động nhất là đời thực của Vua Tự
Đức, đối với mẹ ruột của mình là Đức Từ Dũ, Hoàng Thái Hậu.
Gần 40 năm về trước , nhà sinh vật học được giải Nobel năm 1973 là Konred
Lorenz , chuyên nghiên cứu về sự tiến hóa của loài vật, đã cùng với nữ bác sĩ
thú y là Marie Claun Bonsel, chuyên theo dõi đời sống của muôn thú. Qua nhiều
năm thu nhặt, kết quả hai người đã tuyên bố :’ Dù con người có nghĩ thế nào
chăng nửa, hoặc sự việc xảy ra do bản năng, thì chắc chắn muôn vật sẽ không còn
tồn tại, nếu chúng không có tình mẫu tử .’ Do trên ta đã thấy, trong bất cứ
loài thú nào, ở vào giai đoạn cực kỳ nguy hiểm , thì thú mẹ luôn lấy thân mình
bảo vệ cho con cái, dù biết là mình sẽ chết. Tuy nhiên có sự khác biệt giữa con
người và muông thú, đó là con vật mẹ sẽ không thấy có lỗi , khi bỏ rơi con cái
hay giành lấy thức ăn để sinh tồn , mặc kệ con cái có bị chết đói cũng không
màng tới. Cũng do đặc tính này mà các nhà nghiên cứu đã kết luận, thú vật chỉ
có bản năng tình mẫu tử, chứ không hề có tình yêu tình mẫu tử như con người.
Nhưng dù thế nào chăng nũa , ta cũng phải khâm phục chúng, trong khi đối xử với
con cái , hết sức dịu dàng, trìu mến , giữa một thế giới vạn vật luôn thù nghịch,
đầy hiểm họa, phải giết tróc lẫn nhau để sinh tồn.
Đối với các loài thú hoang dã, khi thú con dứt sửa, thú con bị đuổi đi để tự
sinh tồn. Đây cũng là tập quán, lẽ sinh tồn của rừng xanh. Với loài khỉ đột,
khỉ cái do mỗi lần sinh đẻ chỉ độc nhất một con, cho nên chăm sóc con mình rất
chu đáo, can thận. Riêng khỉ đực thì dửng dưng vô trách nhiệm, vì loài khỉ theo
chế độ đa thê. Loài báo bờm khi sinh con, báo con không có lông và mở mắt được
trong 15 ngày, nên báo mẹ phải chăm sóc và bảo vệ con nhỏ, đồng thời bỏ đàn tìm
một nơi vắng vẻ đê nuôi con, vì báo cha sẽ ăn thịt báo con khi đói. Nhưng vĩ
đại nhất vẫn là tình yêu con cái, nơi loài chim cánh cụt, chúa tể của miền băng
tuyết Nam Cực, một địa danh lạnh nhất hoàn cầu. Để chim con ra đời và sinh tồn,
chim cha và chim mẹ phải thay phiên đứng giữa băng giá lạnh lẽo, suốt thời gian
bốn tháng rưởi, dùng bản thân mình để ấp trứng. Riêng loài Vượt Châu Á, một
loài thú được con người ca tụng nhất, vì tình mẫu tử thiêng liêng bất diệt, yêu
thương con cái hết mực, nên lúc nào cũng sẵn sàng lấy thân mình, để che chở con
cái khi hiểm nguy. Cũng do tình mẫu tử thiêng liên, nên các ác thú như cọp, sư
tử, rắn hổ mang mẹ, sẽ trở nên hung dữ dị thường, để bảo vệ con khi chúng sinh
nở. Đặc biệt nhất nơi loài gấu, vì sợ gấu cha ăn thịt, nên gấu mẹ lúc bnào cũng
cõng nhỏ trên lưng khi chúng mới ra đời. Do tình thiêng đó, nên tục ngữ mới có
câu : ‘Hùm dữ còn không nở ăn thịt con‘.
Tháng
Năm
tiết trời Hạ Uy Di như đã chuyển từ xuân sang hè,
sắc nắng gió biển và những cơn mưa phùn bất chợt se mát, đã gợi nhớ những kỷ
niệm quê hương của một thời xưa xa nồng thắm. Ở đây, mỗi lần nhớ mẹ, đứa con xa
nhà lãng du khổ hận, chỉ còn ước ao lặng lẽ, khóc cưới mê tỉnh và bước vội lên
con thuyền viễn xứ mộng mơ, để nhắm mắt mừng vui tủi tủi như thấy con đang quỳ
bên gối mẹ năm nào.
Mẹ
dỗ con, con ơi đừng khóc
mẹ
ru con, con ơi ngủ đi
mẽ
cõng con trên tấm lưng gầy
bươm
bướm bay, bay vờn theo mãi
bươm
bướm bay, bay vào giấc ngủ
đậu
trên mũi, mùi chuối chín cây
con
bươm bướm lại cất cánh bay
đậu
trên mũi, mùi thơm mía ngọt.. ’
Tháng Năm
hằng năm là ngày giổ của mẹ nhưng hai chục
năm qua, kể tứ ngày Mẹ qua đời tới nay, tôi chưa một lần về quê cũ
để giổ mẹ, thậm chí ngày đưa tang cũng vắng mặt. Nhưng ở Phan Thiết,thì cứ đến ngy trên, cả gia đình xa gần đều tụ họp về căn nhà cũ, để cùng ôn lại
quảng đời cơ cực của mẹ mà khóc. Riêng tôi, đời tên lính già biệt xứ, không
nhà, mất nước, từ lâu chỉ còn biết rửa mặt bằng lệ mắt, để thay cho lòng hối
hận của một đứa con, cứ coi như là bất hiếu vì suốt bao chục năm qua, đã vì đời
mà bỏ mẹ ở chốn quê nghèo.
Cha mất sớm trong cơn binh lửa từ năm 1955, mẹ ở vậy thủ tiết nuôi con khi tuổi
vẫn còn xuân thắm. Bầy con mấy đứa, lớn lên trong cảnh đói nghèo lết lê khắp
phố phường, cồn bãi của chốn biển bạc rừng tiền. Mẹ tự mình gồng gánh hết trách
nhiệm một đời, thay chồng nuôi con,đưá nào cũng được ăn học tới chốn, qua đồi
tay trìu mến đùm bọc của mẹ hiền.
Trong tim, ai cũng có một dòng sông .. tiếng ca và lời nhạc của ai đó nghe thật
thảm buồn, đã đưa tôi sống lại những ngày thơ ấu, cực khổ nhưng êm đềm với vô
vàn kỷ niệm, theo con nước lớn ròng, giữa đôi bờ Mường Giang lao xao sóng vổ.
Tôi được sinh và lớn lên ở bên bờ con sông quê hương đó, với tôi nó chẳng những
là dòng sông tươi mát của tuổi thơ, mà còn là dòng sữa mẹ ngào ngọt nuôi con
một đời:
“ Dòng sữa Mẹ cho con khôn lớn
có bao nhiêu Mẹ vẫn cứ thương
Giờ xa Mẹ ố Mẹ ơi có biết
Thu lại thu, thương nhớ quê hương ..”
(
Thơ Thanh Trí Cao ).
Giờ đây Mẹ đã ngủ yên trên quê hương yêu dấu, mặc cho dòng đời và dòng sông
ròng lớn đổi thay. Nhưng với tôi con sông cũng như lòng mẹ, một đời đã hy sinh
tần tảo vì con, làm sao quên được.
Quê người, tháng Năm
mùa hè
và những trận mưa rào bất chợt, dù chỉ thoáng chốc rồi ngưng
nhưng cũng đủ làm cho áo em ượt sũng.. Ven đường những
cánh phượng vỹ đầu mùa với màu hoa rực rỡ., thỉnh thoảng theo gió rơi nhẹ trên đôi bờ vai khô
héo của đời.
Một đời từng lê gót khắp sông hồ, nếm đủ vị đời hờn hận, nay mới biết, thì ra
trong kiếp nhân sinh, không có bài hát nào hay hơn bài hát của mẹ bên nôi con
thơ, dù rằng chẳng mấy ai còn nhớ tiếng ru của mẹ. Lớn lên bỏ xứ mà đi và đi
mãi, chỉ riêng mẹ ở lại với dòng sông con nước rồi ngả gục, mà con vẫn chua về.
Xóm
Cồn Hạ Uy Di
Tháng Năm Ngày Nhớ Ơn Mẹ.
HỒ ĐINH